.
  Ngày trở về (CG)
 
24/11/2013
 
 

 NGÀY TRỞ VỀ

 Chuyên gia PHẠM THANH KHÂM

 

  (Thân tặng hai Bạn Văn 
Lan Đinh & Lương Mỹ Trang
)
 
 
 
        Nhân đọc bài viết “Đồng Bào Dân Tộc Thiểu Số” của Bác Sĩ Lê Ánh trên trang mạng www.ninh-hoa.comvà tin IFAD (International Fund For Agricultural Development) đặt bản doanh ở Rome, tài trợ dự án TNSP giúp gia đình các dân sắc tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang bắt đầu từ 2011, tôi nhớ lại chuyến công tác 3 tuần lễ của tôi đến tỉnh này với phái đoàn IFAD gồm sáu thành viên: Mary Clark (Mission Leader/Economist), Thanat Bumrungcheep (Irrigation Engineer), Đinh Xuân Quân (Credit Specialist), Leslie Lipper (Socio-economist), Phạm Thanh Khâm (Agronomist), Omar Sanchez (Livestock Specialist). Phái đoàn của chúng tôi đến Hà Nội ngày 22/4/1992 và rời Hà Nội ngày 15/5/1992 về Rome viết phúc trình công tác. 
 
        Đoản văn sau đây không đề cập nội dung kỹ thuật của chuyến đi, tôi chỉ muốn ghi lại những xúc cảm của mình khi trở lại Việt Nam sau 18 năm xa xứ.
 

Từ trái sang phải :
Omar Sanchez, tôi, Đinh Xuân Quân, Mary Clark.
Ảnh chụp tháng 4/1992
 
        Trong cảnh lạ đời xa trên quê hương xưa cũ của mình là suốt dọc đường từ Phi trường Nội Bài về Hà Nội vào thời điểm này, tôi và Anh Đinh Xuân Quân thấy nhan nhãn các quán bán thịt cầy với bảng hiệu quảng cáo rất màu mè. Cho tới ngày nay, tôi vẫn chưa tìm được câu giải đáp là dân mình thích ăn thịt cầy hay vì thiếu lương thực hoặc cả hai.
 
        Đặt chân đến những địa danh mà Ông Cụ của tôi kể từ thuở xa xưa là có dẫn tôi đi ngang lúc tôi lên ba như Hà Nội 36 phố phường, khu Khâm Thiên, Chùa Một Cột, Hồ Hoàn Kiếm…
 
        Tất cả như nghe quen thuộc dù đây là lần đầu tiên từ ngày trưởng thành tôi đến nơi này.
 
        Về giọng nói của người Hà Nội, tôi nghe không giống như các bạn tôi đến miền Nam sau biến cố 1954.
 
Đinh Xuân Quân và tôi tại Chùa Một Cột Hà Nội
Ảnh chụp tháng 5/1992
 
        Nhân chuyến công tác này, tôi đã trở lại Ninh Hòa vài giờ thăm Ông Cụ và Bà Cụ của tôi. Chuyến bay khứ hồi Hà Nội - Nha Trang đi về trong ngày cũng chỉ có vé vòng đi, vòng trở lại phải mua từ Nha Trang. Ngồi trên chuyến bay vượt duyên hải về phương nam, từ khung cửa trên thân tàu tôi nhìn thấy các thành phố thân quen phía dưới, lòng thực bồi hồi và mắt tôi đã ướt.
 
        Lúc người tài xế đưa tôi từ Nha Trang về Ninh Hòa, tôi cho xe đậu cách cổng rào vài chục thước và bảo người tài xế đi một mình vào nhà báo cho ông bà cụ của tôi biết là tôi đang ở Nha Trang sắp về Ninh Hòa để tránh Ông bà Cụ mừng gặp lại con trai của mình quá bất ngờ có thể bị đứng tim vì bà cụ của tôi có bịnh yếu tim.
 
        Mười phút sau tôi bước vào nhà. Môt cảnh tượng mừng mừng tủi tủi, chỉ có ôm nhau mà khóc.
 
        Sau bao lời thăm hỏi và dặn dò, Bà Cụ của tôi mang ra đưa cho tôi cái văn bằng Nông Nghiệp Bội Tinh mà Bà đã cất giấu từ bao năm qua.
 
        Bà bảo tôi mang nó về Mỹ giữ kỷ niệm những ngày tháng làm việc của tôi ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

 
        Ông Cụ của tôi ngậm ngùi thấy cảnh các con của Ông phải ly hương tìm đường sống. Tôi ngồi sát vào Ông và đưa cho Ông đọc bản văn sau đây để Ông an lòng biết tôi còn tiếp tục theo đuổi nghề nghiệp chuyên môn của tôi được đào tạo từ trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc ở Sài Gòn.
 
 

 
        Tôi từ giã Ninh Hòa vào Nha Trang đáp chuyến bay cuối ngày đi Hà Nội với cái Nông Nghiệp Bội Tinh minh họa trên đây. Ngày hôm sau tất cả phái đoàn IFAD đi Tuyên Quang.
 
         Bản đồ dưới đây minh họa 30 điểm mà đoàn IFAD của chúng tôi đã đến năm 1992, Tôi và Anh Đinh Xuân Quân có nhiều lợi điểm hơn các đồng nghiệp khác trong phái đoàn vì họ cần người thông dịch giúp đỡ. Khi thăm viếng các Huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang, Mary và Omar thường thích đi chung với tôi. Do vậy tôi hiểu những gì họ nói với tôi trước các hoàn cảnh thương tâm. Chẳng hạn:
 

 
        Ba chúng tôi vào thăm gia đình người Tầy thuộc huyên Yên Sơn. Nhà cao cẳng. Phải leo bậc thang đơn sơ mới vào được bên trong.
 
        Gia chủ là hai ông bà già gầy ốm, bên cạnh đứa bé trai 6 tuổi tàn tật đang bị bịnh nằm ở một góc trên sàn nhà. Cha đứa bé đã mất, mẹ đi lấy chồng khác. Nhà không còn thức ăn. Ông bà già vào rừng bên cạnh cũng không tìm thấy những gì có thể ăn được.
 
        Mary Clark ngậm ngùi nói khẻ với tôi : Poverty Trap !
 
        Vào thăm gia đình một nông dân khác ở Huyện Hàm Yên. Một bé trai 8 tuổi không đến trường được vì cha mẹ không có đủ 2,000 đồng (tương đương 15 cents US) để đóng một phí khỏan cho trường học.
 
        Omar Sanchez nói với tôi : What can we do ?
 
        Thấy cái đói cái nghèo của họ, thấy cảnh đói ở Phi Châu, ở Afghanistan, tôi không còn diễn đạt gì hơn nhận định của tác giả Lan Đình viết trong tác phẩm “Thuở Phiêu Bồng”do www.ninh-hoa.com xuất bản năm 2013 là “Đẩy Lui Địa Ngục rất khó nhưng cần làm trước khi xây dựng Thiên Đàng”.
 
        Trong chuyến công tác này, tôi cũng có cơ hội hiểu một phần về nếp sống văn hóa của người Tầy với dân số có khoảng 1,626,000 người (thống kê 2009) nói tiếng thuộc nhóm ngôn ngữ Tầy Thái, sinh sống tại Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Thái Nguyên.
 
        Riêng tại Tuyên Quang, có đến 22 sắc tộc thiểu số khác nhau, người Tầy chiếm 26%, kế đến người Dao (11%), người Kinh chiếm 52%.
 
        Số còn lại thuộc nhóm 20 sắc tộc khác.
 
 
Gia đình nông dân Người Tầy và tôi. 
Ảnh chụp tháng 5/1992
 
 
        Tôi được dịp nghe nghệ sĩ Tầy trình bày các bản nhạc cổ truyền loại đàn tính ở huyện Na Hang và các điệu dân ca như lượn, tương tự như hát ví của người Kinh.
 
        Tôi và Bác sĩ Thú Y Omar Sanchez đã hát đáp lễ bài Besame Mucho, tôi hát thêm bài Việt “Tôi Yêu” của Trịnh Hưng và Hồ Đình Phương.
 
 
 Bác sĩ Thú Y Omar Sanchez và tôi
vừa đệm đàn guitar vừa hát tại Na Hang.
Ảnh chụp tháng 5/1992

        Ở huyện, các nữ nhân viên đều có sắc phục rất đặc thù của sắc tôc thiểu số như ảnh minh họa sau đây.
 
 
Đinh Xuân Quân, nữ nhân viên của Huyện Chiêm Hóa và tôi.
Ảnh chụp tháng 5/1992
 
        Sau 18 năm trở về nhà, bản nhạc “ Tôi Yêu” đuợc tôi hát tại Na Hang đã chuyên chở được nỗi lòng của người đi và người về trong tôi.
 
        Để thay lời kết của đoản văn này, tôi xin phép tác giả Lương Mỹ Trang của bài “Hữu Tình Hạt Muối Ninh Diêm” cho tôi trích đọan sau đây đăng trong Đặc San 8 năm (2003-2011) Quê Hương Tình Yêu Kỷ Niệm (trang 39) của www.ninh-hoa.com vì tôi không còn ý nào diễn đạt được hơn:
 
         “Bởi vậy cho nên những ai đã ăn nem có muối Hòn Khói, những ai đã nếm bánh tráng, bánh ướt, bánh dây…có tra nhàn nhạt giọt mồ hôi nghĩa tình ấy , chắc chắn lòng sẽ đậm đà tình yêu thương, yêu chính con người và ngôi nhà, bờ tre, ruộng muối, gốc cây mà không bắt buộc phải yêu bất cứ chủ nghĩa nào mới được công nhận là yêu đất nước.”
 
 

 
 
Viết tại Houston, Texas ngày cuối xuân 2013
Phạm Thanh Khâm

 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 641114 visitors (2135042 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free