.
  Tìm hiểu KH- NT Phần II
 
 
 



Phần II

                    (Vịnh Cam Ranh)
Lịch sử Phát triễn Cam Ranh
Cam Ranh là một vịnh nước sâu ở tỉnh Khánh Hòa .Vị trí  là một đảo Biển Đông Việt Nam ( tuy quốc tế thường gọi lầm là Nam Hải – South China Sea ) ở bờ biển Đông  Nam  nước nhà, giữa hai các đô thị Nha Trang và Phan Rang,  cách  phía Đông Bắc Sài Gòn- TP HCM  khỏang 290 km ( 180 dặm Anh ).  Cam Ranh  được xem là   vùng trú ẩn  nước sâu tốt đẹp nhất Đông Nam  Á . Thềm lục  Đông Nam Á  tương đối hẹp ở Vịnh Cam Ranh , đưa nước  sâu vào tới gần đất liền .
Tổng quát về Cam Ranh
Theo dòng lịch sử, Vịnh Cam Ranh  rất đáng lưu ý  trên phương diện quân sự.  Pháp đã dùng Cam Ranh làm môt căn cứ Hải Quân cho các lực luợng Đông Pháp.  Thời Nga Hòang, đây  là nơi dừng chân của hạm đội Đế quốc Nga do đô đốc Zinovy Rozhestvensky, trước trận Hải Chiến Nga – Nhật ở eo biển  Đối Mã – Battle of Tsushima, năm1905.  Hải quân Hòang gia Đế Quốc Nhật cũng sử dụng Cam Ranh  sửa sọan  xâm chiếm Mã Lai Á năm 1942. Năm 1944, Lực lượng Đặc Nhiệm Hải Quân   Hoa Kỳ – US Naval Task Force số 82 , phá tan tành hấu hết các  cơ sở quân sự Nhật, nên Cam Ranh bị bỏ trống.



Năm  1964, hạm đội số 7 gửi máy bay biển không thám Currituck ( AV -7 )  và các đơn vị Dò Mìn -Mine Flotilla units, làm  nghiên cứu các bải biển, thủy văn học và thám hiểm  các vị trí làm cơ sở được trên đất bờ biển. Họat động  sửa sọan này bất ngờ bắt gặp một tàu lưới vét ( lưới giả cào )- trawler Bắc Việt đang đổ bộ khí giới và đạn dược ở vịnh Vũng Rô kế cận, vào tháng 2 năm 1965. Sự cố này đưa tới việc Hoa Kỳ phát triễn Cam Ranh thành một căn cứ  quân sự chánh yếu cho Chiến Tranh Việt Nam . Không lực Hoa Kỳ họat động ở một cơ sở chở hàng hóa và không vận – cargo/ airlift  to lớn  gọi là Căn Cứ Không Quân Cam Ranh- Cam Ranh Air Base và cũng dùng làm một căn cứ phi cơ chiến đấu chiến thuật. Cam Ranh  là nơi  quân nhân Hoa Kỳ đến và đi ra khỏi Việt Nam,  sau thời gian phục vụ 12 tháng. Hải quân Hoa Kỳ cũng dùng Cam Ranh như thể là một cảng quân sự quan trọng. Hải quân Hoa Kỳ xử dụng  nhiều lọai phi cơ  từ Cam Ranh và nhiều căn cứ khác, để kiểm soát không gian các bờ biển Nam Việt Nam.
Hải Quân Hoa Kỳ sử dụng Vịnh Cam Ranh
 
Vịnh Cam Ranh trở thành trung tâm  các họat động  kiểm sóat không gian bờ biển  tháng tư năm 1967, khi Hoa Kỳ  thiết lập  Căn cứ Máy bay Hải quân ở đây để làm nơi  đậu các phi cơ tuần tra  P-2 Neptune và P- 3 Orion. Mùa hè năm 1967, bộ chỉ huy  và tham  mưu Kiểm sóat  Bờ Biển  chuyễn từ Sài Gòn đến Vịnh Cam Ranh, thiết lập vị trí chỉ huy hành quân hầu kiểm sóat  cố gắng  Hành Quân Thời giờ Thị Trường – Market Time Operation.   Phối hợp tòan cõi Việt Nam cũng tăng cường thêm,  nhờ  thành hình  Trạm  Truyền Thông Hải Quân – Naval Communications Station .
Thoạt tiên  các tiện nghi  trên bờ ở vịnh Cam Ranh  rất giới hạn, đòi hỏi nhiều biện pháp tạm thời  để hổ trợ lực lượng chiến đấu Hải Quân Hoa Kỳ. Các kho của Lục quân, cung cấp các vật dụng thường thức, trong khi các tàu nhỏ chở hàng hóa hạm đội thứ 7  là Mark ( AKL -12 )  và Brule ( AKL – 28 ) chở  các vật dụng  hải quân đặc biệt  từ Subic Bay ở Phi Luật Tân. Mãi đến  giữa năm 1966, khi các  tiện nghi  trên bờ đang sửa sọan làm nhiệm vụ mới, ăn uống và  cư trú nhân viên do APL – 55 đóng ở cảng đảm trách.  Một bến cầu được thiết lập để sửa chửa các tàu tuần tra duyên hải. Dần dần Họat Động Hổ trợ Hải quân  Sài Gòn, Phân đội Cam Ranh  cải thiện  duy trì  và sửa chữa, tài chánh, truyền thông, chuyên chở, bưu chánh, tiêu khiển và hổ trợ an ninh.
Trong lúc tập trung bản doanh và lực lựợng của Thời giờ Thị Trường Vịnh Cam Ranh – Cam Ranh Bay of MarketTime  mùa hè năm 1967, yêu cầu  hổ trợ căn cứ trở nên lạ thường. Chiếu theo đó, Họat động Hổ trợ Hải Quân Sài Gòn, Phân đội Vịnh Cam Ranh tái họa thành  Tiện Nghi  Hổ trợ  Hải Quân cho Vịnh Cam Ranh, một tình trạng  tự chủ và tự  túc hơn,  một phân phối  tài nguyên và lực lượng cho các thiết lập trên bờ đã giúp thêm khả năng   cộng tác  cùng các đơn vị chiến đấu  đang xây đắp .  Đồng thời, Tiện nghi Vịnh Cam Ranh hòan tất nhiệm vụ  sửa chửa chánh các tàu và  phân phối thêm nhiều vật dụng đa lọai hơn cho lực lượng đặc nhiệm  chống xâm nhập. Thêm vào đó, Tóan hải quân  của Sở  Chung Kho Vũ Khí  cung cấp vũ khí cho  các lực lượng tuần tra bờ biển, kiểm sóat Sông Rạch  và di động trên sông cũng như  cho  súng ống các  khu trục hạm và tàu đổ bộ của Hạm Đội thứ 7. Đơn vị 302 Duy Trì Ong Biển- SeaBee Maintenance  cung cấp  giúp đở  công chánh cho  các Phân đội  phân tán của  Họat Động  Hổ Trợ Hải Quân.  Như thể  một phức tạp hậu cần khẩn thiết. Vịnh Cam Ranh tiếp tục họat động khá lâu, sau khi  các lực lượng chiến đấu rút khỏi miền Nam Việt Nam như thể là một phần Việt Nam Hóa Chiến tranh. Tuy nhiên, giữa tháng giêng và tháng tư năm 1972, Tiện Nghi không lực Hải Quân và Trạm  Truyền thông Hải Quân được trao lại cho Hải Quân Miền Nam và ngưng họat động.



Vịnh Cam Ranh bị chiếm cứ
Sau khi Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam Việt Nam năm 1973, Không Quân miền Nam Việt Nam đã sử dụng phi trường Vịnh Cam Ranh như thể là kho chứa các máy bay cánh quạt  còn bay đượcA –IE , T- 28 .  Máy bay lọai này được cất giữ  ở kho, trong khi rất nhiều phản lực F-5s và A-37 được sử dụng vào  các cuộc hành quân  chống lại quân đội miền Bắc. Đầu xuân năm 1975, Bắc Việt nhận định  đúng là lúc hòan thành nhiệm vụ  Thống nhất Việt Nam duới thể chế Cọng sản, tung ra một lọat tấn công trên bộ nho nhỏ để dò xét phản ứng Hoa Kỳ.  Khi Tây Nguyên và các tỉnh phía Bắc miền Trung thất thủ,  hổn sợ xảy ra.  Đến ngày 30 tháng 3 năm 1975 , trật tự  tại Thành phố Đà Nẳng và ở cảng Đà Nẳng hòan tòan tan vỡ.  Các  lính đào ngũ Quân đội Miền Nam  bắn  vào dân gian và bắn lẫn nhau. Tiền quân Bắc Việt bắn vào các tàu Mỹ ở cảng Đà Nẳng và đưa các  tóan phá họai  đến trước, phá hủy các tiện nghi các cảng và các dân tị nạn cố  tìm cách leo lên bất cứ tàu bè nào còn chạy được. Thoạt tiên Vịnh Cam Ranh được lựa chọn  là nơi an tòan cho quân đội và dân sự Miền Nam, chở tàu di tản từ Đà Nẳng đến. Nhưng rồi ngay sau đó, Vịnh Cam Ranh cũng trở thành nguy hiểm.  Giữa 1  và 3 tháng tư năm 1975, rất nhiều dân tị nạn  vừa lên bộ  thì đã trở lui, lên lại tàu đi về miền Nam và miền Tây  đến đảo Phú Quốc ở  Biển Tây -Vịnh Thái Lan và lực luợng  ARVN rút khỏi căn cứ Cam Ranh. Ngày 3 tháng tư năm 1975, lực lượng Bắc Việt chiếm Vịnh Cam Ranh và mọi cơ sở quân sự Vịnh này.
                   Căn cứ Hải Quân Sô Viết và Nga                       
Bốn năm sau thất thủ Sài Gòn và Thống Nhất Nam Bắc, Vịnh Cam Ranh  trở thành một  căn cứ hải quân  quan trọng của Hạm Đội Sô Viết Thái Bình Dương thời  chiến tranh lạnh. Năm 1979, Chánh phủ Sô Viết ký một thỏa hiệp  với Việt Nam thuê căn cứ 25 năm. Vịnh Cam Ranh là căn cứ hải quân  lớn nhất của Nga Sô Viết, giúp cho Nga Sô  dự tính  tăng cường sức mạnh ở Biển Đông.  Năm 1987, Nga Sô đã nới rộng căn cứ lên  4 lần hơn kích thước cũ và làm những tấn công  chế giễu hướng về Phi Luật Tân, theo tình báo của Hạm đội Thái Bình Dương Hoa Kỳ. Các nhà phân tích gợi ý rằng  phía Việt Nam  cũng xem hiện diện  Sô Viết là một  đòn cân chống trả lại  mọi đe dọa tiềm thế từ phía Trung Quốc. Cả Nga Sô lẫn Việt Nam đều chối bỏ mọi hiện diện này . Tuy nhiên,  năm 1988, bộ trưởng Ngọai giao Nga Sô là Eduard Shevardnadze đã bàn cải một cơ hội rút khỏi Vịnh Cam Ranh và các giảm bớt  hải quân, thật sự đã  thực thi năm 1990. Chánh phủ Nga tiếp tục  dàn xếp 25 năm ở thỏa hiệp năm 1993,  cho phép  tiếp tục dùng căn cứ làm nơi thu lượm dấu hiệu tình báo, đặc biệt các Truyền thông Trung Quốc tại Biển Đông. Năm đó, phần lớn nhân viên và tàu bè hải quân Nga  đã được rút đi, chỉ còn lưu lại hổ trợ kỷ thuật  cho trạm nghe ngóng.  Khi thuê mướn 25 năm sắp hết hạn, Việt Nam đòi tiền thuê lên đến 200 triệu đô la Mỹ một năm  để căn cứ tiếp tục họat động. Nga không đồng ý và quyết định rút hết nhân viên. Ngày 2 tháng 5 năm 2002, cờ Nga hạ  đi mất tiêu lần cuối cùng. Năm đó, các chức quyền Việt Nam  dự trù biến căn cứ thành một cơ sở tiện nghi dân sự, như Chánh phủ Phi Luật Tân dự trù  cho căn cứ Mỹ tại Subic Bay.
Cam Ranh quân cảng ( và không cảng ? ) bảo vệ hải phận, không phận Biển Đông- Trường Sa
Sau khi Nga rút đi, Hoa Kỳ thảo luận  cùng Việt Nam  mở lại Cam Ranh cho các tàu chiến ngọai quốc như đã làm với cảng Hải Phòng ở Bắc Việt và cảng  TP HCM ở miền Nam.  Ở một chuyễn động được xem như là một hành động an ninh  chống lại Trung Quốc xây dựng lực lượng Hải Quân ở Biển Đông – Nam Hải Tàu, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố  ngày 31 tháng 10 năm 2010 là vịnh Cam Ranh  sẽ  mở lại cho các hạm đội ngọai quốc, theo một dự án 3 năm nâng cấp các cơ sở cảng. Việt Nam đã thuê các cố vấn Nga chỉ huy  xây dựng các tiện nghi  mới sửa chửa tàu và hy vọng  sẽ mở cho tàu trên mặt nước và tàu ngầm  đến vào năm 2014. Xây dựng lại quân cảng Cam Ranh là điều kiện thiết yếu để giữ  gìn và phát triễn hải phận  biển Đông nước nhà  hơn cả  các cảng Phủ Quốc  cho hải phận biển Tây nữa. Vì bành trướng Trung Quốc ở Biển Đông hùng mạnh hơn, đã cưỡng chiếm Hòang Sa – Paracel Việt Nam từ 1974 và nhiều đảo Trường Sa Việt Nam mà Việt Nam chỉ mới chiếm lại được 28 đảo lớn nhỏ ( trong số trên 1000 đảo ?) Trường Sa, sau những trận hải chiến thập niên 1980 ( ? ). Vấn đề càng nghiêm trọng thêm, khi Trung Quốc lại  có thể bắt đầu thiết lập nới rộng vùng bảo vệ không lưu quốc phòng  -new air defense zones xâm phạm vùng không lưu Nam Hàn và Nhật ở vùng các đảo Điếu Ngư – Senkaku, Hòang Hải, như đã nới rộng “ bất hợp pháp” vùng  hải phận “Lưỡi Bò”  Trường Sa, Trung Quốc gọi là Nam Sa.  Bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Leon Panetta  đã đến Vịnh Cam Ranh tháng 6 năm 2012 , thăm viếng lần đầu tiên của một cấp  bộ trưởng nội các Hoa Kỳ, kể từ thời Chiến Tranh Việt Nam. Cuối cùng cũng vào năm 2012, Việt Nam cố công thiết lập một căn cứ hải quân Nga tại Vịnh Cam Ranh , sẽ hòan thành năm 2014 như đã kể trên, nhưng không rỏ khi nào thì các tàu ngầm mới, các hỏa tiễn mới, các phi cơ tàng hình hay không mới …,  Việt Nam  mua của  Nga hay nhờ Ấn Độ giúp đở chế tạo,  có đủ sức tự vệ ở  hải phận và không phận biển Đông nước nhà, trước các bành trướng xâm lăng của các lực lượng Trung Quốc, mỗi ngày một tân tiến và hùng mạnh thêm  ?
        


          Phi trường Quốc tế Cam Ranh trườngquốc tế Cam Ranh
 
Phi trường Quốc tế Cam Ranh
Phi trường  quốc tế Cam Ranh đã mở cửa đón chào chuyến bay thương mãi đầu tiên đến từ Hà Nội , ngày19 tháng 5 năm 2004.   Năm nay  2013 , phi trường đã hòan tòan thay thế  phi trường Nha Trang trong nhiệm vụ này.
Cảng Ba Ngòi 
 Cảng Ba Ngòi là cảng  thương mãi quốc tế  nằm ngay bên trong Vịnh Cam Ranh, có đủ mọi điều kiện thiên nhiên và tiềm năng thuận lợi,  phát triễn các dịch vụ của một hải cảng lớn, như:  bề sâu vùng thả neo, một vịnh kín gió bảo tố và rộng rải, rất gần khỏang chừng 10 km, Đường Giao Thông Biển Quốc tế- International Marine Route, cách phi trường Cam Ranh 25 km, cách quốc lộ 1A 1.5km và đường xe lữa Nam Bắc 3km.  Cho nên từ lâu đã là một Trung tâm Giao thông  Biển  cho vùng kinh tế Nam Khánh Hòa và các tỉnh lân cận .
Chậm trễ,  thất bại Phát triễn Vịnh Văn Phong
 
         Ngược lại, phía Bắc Nha Trang, vịnh nhỏ rất đẹp là bải biển Đại Lãnh và nhất là Vịnh Văn Phong lại thất bại phát triễn. Dù Văn Phong cũng  là một cảnh trí thiên nhiên, khí hậu ôn hòa, một bải biển  phần lớn là cát trắng mịn, có đồi núi  và rừng nhiệt đới bao quanh, những rạng san hô rực rở đủ màu sắc, nhiều dấu tích rừng ngập nước mặn, một môi trưòng lý tưởng  cho sinh vật biển đặc thù giá trị cao nước nhà.  Bề sâu vịnh là 22- 27m  và vịnh được bán đảo Hòn Gốm- Đầm Môn bảo vệ. Cảng Dốc Lệch ?, một bải biển vịnh Văn Phong có đường đi đến thị trấn Ninh Hòa và trung tâm huấn luyện Dục Mỹ,    đã được sử dụng đóng tàu thủy  và làm căn cứ hậu cần . Cảng Chính  Văn Phong khởi công xây cất giai đọan 1 tháng 9 năm 2009,  hai bến tàu  dự trù cho các tàu công ten nơ dài 16.5 m, trọng tải 9 000 TEU cập bến, và tăng lên sau đó đến 15 000 TEU. Nhưng nhiều trở ngại ( họa kiểu sai lầm, động đất di chuyễn… ) khiến mọi xây cất ngưng vào tháng  5 năm 2011, chỉ  mới thực hiện 6 % xây cất bến tàu  dự liệu.Vậy chớ  các tổ hợp đâu tư Nhật do Sumitomo lảnh đạo, đầu tư  15 tỉ đô la Mỹ  xây cất cảng sâu cho tàu  100 000 tấn cập bến được, dự tính chất tải lên xuống 100 triệu tấn  hàng hóa một năm, rút lui năm nào ? Phát triễn Vùng Kinh tế Văn Phong gần Ninh Hòa rộng 150 000  ha cũng ngưng trệ,  vì xây dựng hạ tầng cơ sở không được chánh quyền trung ương chấp thuận và giải ngân hổ trợ.  Ba sự cố tai hại nhất là chánh quyền đã rút đi năm 2011 môn bài của hảng  chuyên chở tàu thủy Vinalines Shipping, vì công ty này không đủ khả năng tài chánh;  sau đó  Petro Việt Nam cũng rút hết mọi đầu tư  khỏi Văn Phong và Công Ty Nam Hàn STX  Group  cũng bị đóng cửa vì thiếu tài chánh  ? Tóm lại 125 dự án phát triễn Văn Phong chỉ là những công ty giấy -  project papers?
          Phát triễn nông nghiệp      
 
Khánh Hòa là một tỉnh ngư nghiệp lớn hơn canh nông.  Nhờ tỉnh nhà có nhiều ngư   trang nuôi thủy sản, sản lượng chiếm đên 2/3 tổng thủy hải sản tòan tỉnh. Khu vực Canh nông Khánh Hòa tương đối nhỏ bé.  Lúa gạo Khánh Hòa nhỏ nhất các tỉnh Nam duyên  Nam  Miền Trung. Năm 2007 đạt 188 500 tấn  lúa, nghĩa là 120 – 130 Kg cho mỗi đầu người , tương đương  một phần tư  mức đảm bảo tự  túc là 500 Kg/ người. Nhưng nhờ dịch vụ du lịch , cán cân  thương mãi Khánh Hòa những năm gần đây  rất thuận lợi : năm 2007  tỉnh xuất khẩu trên 503 triệu đô la Mỹ và chỉ nhập khẩu  222 .5 triệu , thừa sức mua nông phẩm bổ túc cần thiết .
Nông sản  đáng kể Khánh Hòa là mía ( năm 2007 sản xuất  740 000 tấn , hơn 4 .2 % tổng số mía  quốc gia ) và hột điều- đào lộn hột ( năm 1975 chưa có bao nhiêu, nhưng năm 2007 đã là  5238 tấn ) . Hai đặc sản Khánh Hòa khác là thanh long (Khánh Hòa là nơi trồng thanh long đầu tiên nước nhà ? , nhưng nay đã bị Ninh Thuận -Bình Thuận bỏ xa ), thuốc lá thơm-  tabac blond ở vài  thôn đèo Rù Rì, phía Bắc Nha Trang  thập niên 1960, nhưng nay không thấy ai đề cập tới nữa . Đất nông nghiệp chỉ đạt 87 100 ha hay  16 .7 % đất đai tỉnh nhà.  Rừng chiếm đến  hơn 1/2 diện tích tòan tỉnh. Đặc biệt là  Vùng núi Hòn Bà cách Nha Trang 30 Km  có một vùng đỉnh khí hậu tương đương tự Đà Lạt và SaPa;  mưa gần như suốt năm  trung bình  252 ngày mưa một năm, trong khi vùng chân núi và vùng thấp lân cận  như Diên Khánh và Cam Ranh lại có khí hậu khô khan thể thức Phan Rang. Hòn Bà (theo Trần Đăng Hồng 2012 : Việt Nam  Văn Hóa và Môi Trường Thái Công Tụng và Lê Hửu Mục chủ biên )  là nơi ông Năm Yersin  thiết lập năm 1914 (cách đây 100 năm )  một la bô sinh học đầu tiên nước nhà , một trạm khí tượng  và một vườn thí nghiệm cây ký ninh – Cinchona ledgeriana trị sốt rét.  Phải cố gắng tái tạo  rừng vùng đỉnh Hòn Bà rừng bị tàn phá bằng các cây ăn trái ôn đới -  bán nhiệt đới như hai vùng mát này. Hòn Bà còn giữ được một khu rừng nguyên sinh – primary forest , gồm nhiều cây tùng bách Pê mu – fokienia hodginsii, một đại mộc cao 20m  vùng Phú Khánh , gỗ làm hòm, đồ mỹ nghệ rất tốt . Hòn Bà còn là vùng đặc hửu cho nhiều lòai  trà mi – Camellia sp. Việt Nam,  hàng trăm lòai hoa lan,  chim chóc cùng nhiều lọai bướm đặc hửu nước nhà. Hòn Bà là nơi duy nhất tìm thấy  các loai chim hiếm có, thuộc lòai  phụ  chim họa mi, chim hét ( ? )- robisoni subspecies ;  sáo hót – laughing thrushes  mào đen black hooded , má trắng – white cheeks,  vẹt  đầu xám – grey headed parrotbill, chim hót cao cẳng  đuôi ngắn mã tấu – short tail scimitar babblers….  Tháng 6 năm 2005, các nhà khoa học Nga đã nhận diện một lòai rắn mối – lizard mới .
Tại sao không thử nghiệm ở chân núi nóng nực hơn với các giống cây bàng biển thuộc họ Trâm – Chưn Bầu Combretaceae   chứa cả chục loài  Terminalia sp. ở Việt Namcó tên là Chiêu Liêu, Bàng   tán  vuông , của các đảo Trường Sa , Khánh Hòa quản trị hay quần đảo Hòang Sa Trung Quốc cưỡng chiếm sau 1974, hiện thuộc huyện đảo “ tỏi” Lý Sơn – Quảng Ngãi . Bàng tán vuông là  cây bàng cho bóng mát , trước khi rụng lá xanh thành màu đỏ , do đó có tên là cây phong chăng ? , lại mọc tốt chịu đựng gió bảo biển Đông nên được gọi thêm là cây phong ba?,  mọc tốt ở đất cát , đá cằn cổi ở Trường Sa , Hòang Sa. Bàng  biển, phong ba tán vuông,  tên khoa học là Terminalia  catappa , tên Anh  là sea almond – hạnh nhân biển, hạnh nhân Ấn Độ- Indian almond, tên Pháp là badamier. Nhân hột  bàng ngon nhưng nhỏ bé ; trái T. catapppa   thu lượm  chế biến vùng Vũng Tàu -Bà Rịa ?  thành kẹo hột bàng. Đây là một cây ăn trái  đáng cho Việt Nam  du nhập thêm giống mới từ Ấn độ ? , lai giống tuyễn chọn giống cho nhân cao năng hơn , làm thành một hạnh nhân nhiệt đới đặc thù vùng cát biển , đất khô cằn nước nhà, như đã thành công với hột điều, đào lộn hột- cashew nut ngày nay.
Hai  sản phẩm đặc sản khác không thể quên  là cây gỗ trầm hương – kỳ nam và  tổ yến sào . Các chi tiết về trầm hương đã được trình bày  cách đây 2 năm, ở bài gỗ trầm hương Việt Nam và thế giới tháng 11 năm 2011. Nhắc lại là gỗ Trầm hương  – Kỳ nam   tên ngọai quốc là Calambac, khác hẳn lòai gỗ hương thơm, gỗ đàn hương – sandal wood.  Danh từ Nhật gọi trầm hương là jinko và Tàu gọi là chénxiàng. Thực tế thế giới có nhiều lòai cho gỗ thơm trầm hương  của tông chi thực vật Aqualiaria sp..,nhưng tốt nhất là lòai Aqualaria crassna , một đại thụ 4 – 10m , mọc nhiều ở vùng Ninh Hòa. Lây nhiễm lòai nấm nang bào tử- ascomycete  Phialaphora parasitica , cây sản xuất ra một lọai nhựa- resin chứa trầm hương thơm phức. Việt Nam nay đã trồng được tốt  A. crassna, cây  lây nhiểm được nhân tạo  nấm nang bào tử, để sản xuất nhựa Calambac ?
Việt Nam  là nơi sản xuất yến sào hay tổ chim yến- swiflet bird nest phẩm gía cao tại Hội An , Khánh Hòa , Đà Nẳng và Phú Yên. Nhưng sản phẩm đa lọai nhất, nhiều nhất  ngày nay, lại ở Khánh Hòa, tại  các đảo gần vịnh Nha Trang, một hòn đôi còn mệnh danh là Hòn Yến- Salagane Islands.  Chim yến làm tổ  ăn được bằng nước miếng ( dãi ), trên thế giới  gồm 4 tông chi Aerodramus, Hyerochous, Schoutenapus  và Collocallia  thuộc họ chim yến  Agroidus,  xếp thành  30 loài  ở Nam Á và các đảo Thái Bình Dương.  Chim yến (theo Thái Công Tụng-  2005 ) thường thuộc loài Collocallia Fuciphaga ,  cánh dài 115 – 125 m, lưng màu đen. Chim yến kiếm mồi trên không trung, ăn nhiều lọai côn trùng  như ruồi, muổi, mối, kiến, chuồn chuồn, bướm. Làm tổ trên vách đá cheo leo, rất trơn để  rắn, chuột khó leo đến. Tổ yến  nặng từ 8- 10gr, màu sẩm có 90 % nước bọt và khỏang 10% tạp chất khác.  Hàm lượng đạm cao – 40 50%.  Cũng theo Thái Công Tụng, phân lọai từ cao xuống thấp  : yến huyết màu  đỏ như máu,  yến hồng màu da cam, yến quang  màu  trắng ngà, yến  thiên  màu tối hơn yến quang  tổ chỉ nặng 6- 7 gr , yến bài , yến vụn…  Ngòai một số công ty tư nhỏ, Công ty quốc doanh tổ yến  Salagane Nest Company  quốc doanh trụ sở tại Hòn Yến , nay đã có chi nhánh ở 32  đảo, 154 nước và liên hợp  với 18 công ty trung bình thế giới , hy vọng sẽ sản xuất 3500 tấn tổ yến thương mãi hóa năm 2015 và 4500 tấn  năm 2020. Một kg yến trắng bán 4000 USD ở Hồng Kông ( trong nước giá  2000 USD /kg ) như vậy hy vọng doanh thu sẽ lên đến 7 – 12 tỉ USD năm 2020 ? Năm 2012, doanh vụ Salagane  là 2,640 tỉ ĐVN.  Phẩm giá tổ yến cao nhất là Cam Thịnh  và Tổ hợp  bán ra hiện nay đến 40 lọai sản phẩm yến sào khác nhau, khắp 63 tỉnh ,TP Việt Nam. Tổ hợp còn có tổ chức nghiên cứu  cải thiện năng xuất cách nuôi yến làm tổ và tạo ra thêm sản phẩm mới nguồn gốc yến sào.
(Irvine, Nam Ca Li – Hoa Kỳ, ngày 6 tháng 12 năm 2013 )
 

 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 630170 visitors (2115904 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free