.
  Thân phận người Thầy
 
20/11/2013

 
 


Người thầy ngày xưa sống với nghề, được xã hội trọng vọng, có quyền hành và có tự do trong việc tổ chức giảng dạy và đánh giá học sinh của mình. Còn người thầy ngày nay trong xã hội ta thì sao?

 
Chân dung người thầy hiện nay
Người thầy ngày nay nhất là đối với giáo viên phổ thông thực sự là một người “thợ dạy” nghèo về vật chất, vất vả áp lực trong công việc, thiếu tự do và quyền hạn trong chuyên môn, và do đó, cũng chẳng phong phú gì về mặt tinh thần.
Trước hết là chuyện cơm áo gạo tiền. Theo kết quả đề tài khoa học cấp Nhà nước do bà Nguyễn Thị Bình, nguyên Phó chủ tịch nước, làm chủ nhiệm cho thấy: “Thu nhập bình quân từ lương và các phụ cấp theo lương trong khoảng từ 3 đến 3,5 triệu đồng/tháng. Tính theo năm công tác thì lương giáo viên sau 13 năm từ 3 đến 3,5 triệu đồng/tháng, sau 25 năm từ 4,1 đến 4,7 triệu đồng/tháng. GV mới ra trường ở cả 3 cấp học nhận mức lương trên dưới 2 triệu đồng/ tháng. Với số lượng GV như hiện nay, theo tính toán của đề tài, chỉ khoảng 50% GV các cấp có thâm niên dạy học từ 13 năm trở lên và được hưởng mức lương bình quân, 50% còn lại được hưởng dưới mức lương bình quân”1.
Cả hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam hiện nay tựa như một trường đua mà đích đến là đủ thứ danh hiệu gắn liền với cá nhân với tập thể.
Lương của giáo viên như thế, trong khi vật giá đắt đỏ, các thầy cô cứ phải sống tằn tiện qua ngày. Nếu hai vợ chồng cùng là giáo viên, nuôi hai đứa con ăn học, thì kể là đói. Có thực mới vực được đạo, bụng mà còn đói thì khó có thể nói chuyện lý tưởng “trồng người”, tiêu cực dạy thêm học thêm, mua bán, trao đổi điểm chác cũng từ đây mà ra, làm nền giáo dục đi xuống, làm hình ảnh người thầy nhếch nhác trong mắt học trò và xã hội.
Về thời gian, trước đây tuy vẫn thiếu thốn, nhưng người giáo viên còn thong dong về mặt thời gian vì họ chỉ dạy một buổi, nay đa số trường dạy hai buổi một ngày, nên họ phải có mặt ở trường từ sáng sớm đến chiều, về tới nhà lại còn phải lo chuyện gia đình, con cái, rồi bao nhiêu chuyện không tên như soạn giáo án, làm sổ sách, vv. Ngày này qua ngày khác làm họ mệt mỏi, những người có lý tưởng khi mới vào nghề vì vậy cũng phai nhạt dần.
Người thầy bị giao phó đủ thứ nhưng lại chẳng có quyền hành gì trong công việc. Các đề thi các kỳ kiểm tra trong năm đều do phòng và sở giáo dục ra. Nghĩa là giáo viên cứ dạy theo những gì có sẵn, nhưng ai đó bên trên họ lại là người giữ quyền đánh giá học sinh của họ.
Chuyện thiếu thời gian, thu nhập ở trên đã là vấn đề, thì chuyện áp lực trong nghề nghiệp là vấn đề trầm trọng, thường trực đối với người thầy hiện nay. Nhiều giáo viên nói với tôi là họ bị căng thẳng thường trực vì luôn chịu áp lực. Căng thẳng vì phải luôn lo đối phó với các đoàn thanh tra, kiểm tra từ Bộ, từ sở, từ phòng và từ ban giám hiệu trường. Có những đợt thanh tra, dự giờ có báo trước, nhưng cũng có nhiều lúc không báo trước. Để đối phó với các đoàn thanh tra, giáo viên nhiều lúc phải bố trí cho học sinh đóng kịch, tạo ra các giờ học “chất lượng” giả tạo, không phản ánh đúng chất lượng thật, không tốt gì cho học sinh và cho cả xã hội.
Người thầy còn chịu áp lực vì bệnh thành tích, hệ quả của cách quản lý giáo dục kiểu “thi đua khen thưởng”. Cả hệ thống giáo dục phổ thông Việt Nam hiện nay tựa như một trường đua mà đích đến là đủ thứ danh hiệu gắn liền với cá nhân với tập thể. Người ta nhắc lên đặt xuống các cán bộ quản lý, các giáo viên và cả học sinh đều dựa chủ yếu trên các thành tích thi đua khen thưởng này. Sự hơn thua trong các cuộc đua được đánh giá thông qua các thành tích điểm số bên ngoài. Vì phải đua, nhà trường khoán cho giáo viên làm sao đó để cuối kỳ, cuối năm, phải đạt bao nhiêu học sinh khá, giỏi, xuất sắc nhằm có được những con số đẹp trong các báo cáo. Ngoài chuyện này, hệ thống còn tổ chức vô số các cuộc đua khác, một người bạn giáo viên tiểu học viết thư cho tôi kể: “bọn mình dạy tiểu học đến trường ngày 2 buổi cho đến hết tuần. Tối về lại bao nhiêu việc không tên khác như làm báo cáo, soạn bài, làm các chuyên đề để lên lớp và ôn luyện cho các cuộc thi: Thi quản lí giỏi, giáo viên dạy giỏi các cấp, thi khảo sát chất lượng quản lí và giáo viên, hội thi hát dân ca, thi đàn piano, thi luật an toàn giao thông….Tháng 1 này (2013) chúng mình đếm có đến 6 cuộc thi quan trọng. Nghe thầy Hiệu trưởng công bố chúng mình hồn vía lên mây xanh cả, cảm thấy áp lực vô cùng”.
Người thầy bị giao phó đủ thứ nhưng lại chẳng có quyền hành gì trong công việc. Các đề thi các kỳ kiểm tra trong năm đều do phòng và sở giáo dục ra. Nghĩa là giáo viên cứ dạy theo những gì có sẵn, nhưng ai đó bên trên họ lại là người giữ quyền đánh giá học sinh của họ. Không có quyền gì, nhưng họ lại là người phải chịu trách nhiệm nếu như học sinh mình không đỗ đạt cao. Kiểu tổ chức thi cử đánh giá này thể hiện sự không tin tưởng và tôn trọng người thầy, đặt cả thầy và trò vào thế bị động, buộc họ phải đối phó một cách căng thẳng và tiêu cực. Với cách làm này, chúng ta hoàn toàn dễ hiểu tại sao giáo viên sẵn sàng dạy “văn mẫu” cho học sinh, vì chỉ làm như vậy mới có thể đối phó với các đề thi áp đặt từ trên xuống.
Người Thầy trong xã hội Phần Lan
Tôi xin lấy mô hình giáo dục Phần Lan, một nền giáo dục đang thu hút cả thế giới vì sự thành công kỳ diệu của nó trong những thập niên gần đây, để làm mốc quy chiếu nhằm từ đó biết chúng ta đang ở đâu trên thế giới này.
Cũng như Việt Nam, người Phần Lan xem giáo dục là quốc sách hàng đầu, là chìa khóa của sự tăng trưởng và cạnh tranh quốc tế. Tại xứ Bắc Âu này, người thầy được cả xã hội tin tưởng và quý mến. Do đó, cửa vào ngành sư phạm là rất hẹp, giới trẻ xem nghề giáo là một nghề lý tưởng, ai cũng muốn trở thành “kỹ sư tâm hồn”, nên ngành sư phạm tha hồ chọn người tài. Cô Paula, một giáo viên trong ngôi trường mà chúng tôi đã chọn quan sát ở Phần Lan kể về con đường trở thành giáo viên tiểu học của cô: “khóa thi vào khoa sư phạm của tôi năm đó chỉ có 1/5 ứng sinh trúng vào vòng hai, trong số này, sau nhiều vòng phỏng vấn, người ta chỉ chọn ra một người mà thôi” 2. Và để trở thành giáo viên chính thức của trường này, chị đã phải vượt qua 36 hồ sơ khác cùng nộp đơn dự tuyển. Con đường trở thành giáo viên ở bất kỳ cấp học nào tại xứ này cũng thực sự gian truân nhưng cũng đầy vinh dự.
Người thầy trong xã hội Phần Lan là một chuyên gia giáo dục, ai cũng phải có bằng thạc sĩ trở lên. Họ là một nhà sư phạm trong việc chuyển tải tri thức, một người biết làm nghiên cứu về giáo dục, một kỹ sư tâm hồn đúng nghĩa. Họ là chủ thể tham gia vào hoạch định mục tiêu chương trình giảng dạy, họ tự do trong việc tổ chức giảng dạy, lựa chọn phương pháp sư phạm và đánh giá học sinh. Về đời sống vật chất, lương bổng cho phép họ sống đàng hoàng để toàn tâm toàn ý dấn thân cho nghề nghiệp. Theo báo cáo của Hội đồng châu Âu, lương trung bình trước thuế của giáo viên phổ thông Phần Lan trong năm học 2011 - 2012 là 2 598 euro/ tháng3, tương đương với 72.479.364 vnđ, trong khi tôi thấy vật giá giữa Việt Nam và Phần Lan không chênh lệch nhau là mấy.
Giáo viên Phần Lan không hề phải chịu bất kỳ áp lực gì, chẳng ai thanh tra rình rập họ. Hiệu trưởng thỉnh thoảng có thể góp ý, nhưng không có quyền nói với họ là họ phải làm thế này thế khác. Giáo viên chẳng cần phải thi đua với ai, so bì với ai, chẳng có các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua cấp này cấp kia. Hệ thống giáo dục Phần Lan hoàn toàn vắng bóng hình thức thi đua khen thưởng như ở ta.
Giáo viên Phần Lan không hề phải chịu bất kỳ áp lực gì, chẳng ai thanh tra rình rập họ. Hiệu trưởng thỉnh thoảng có thể góp ý, nhưng không có quyền nói với họ là họ phải làm thế này thế khác. Giáo viên chẳng cần phải thi đua với ai, so bì với ai, chẳng có các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, chiến sĩ thi đua cấp này cấp kia. Hệ thống giáo dục Phần Lan hoàn toàn vắng bóng hình thức thi đua khen thưởng như ở ta.
Người Phần Lan quan niệm đơn giản về triết lý giáo dục, đó là nhiệm vụ của nhà trường là làm cho trẻ em hạnh phúc, bởi một đứa trẻ hạnh phúc thì cũng là đứa trẻ phát triển toàn diện, có đầy đủ khả năng để lãnh hội bất kỳ thứ gì. Mọi hình thức cạnh tranh, kiểm tra, kiểm soát chỉ gây ra căng thẳng cho cả thầy và trò, khi bị căng thẳng sẽ không thể có môi trường thoải mái thực sự để có thể sáng tạo. Hơn nữa phương cách này chẳng giúp cải thiện chất lượng giảng dạy, nó chỉ tạo ra sự giả dối mà thôi. Một cán bộ quản lý giáo dục cấp địa phương nói với chúng tôi trong đợt chúng tôi khảo sát ngôi trường nằm trong vùng ông quản lý: “Ngày nay chúng tôi không có bất kì loại thanh tra nào cả. Về môn Lịch sử thì tôi nhớ cách đây 20 hay 40 năm gì đó người ta có thanh tra, nhưng giờ thì hoàn toàn không. Tôi nghĩ, thanh tra cũng không mang lại gì. Vì nếu như bạn biết có thanh tra, thì bạn sẽ làm tốt hơn để đối phó, và như vậy là không thật, và cũng không thật đối với học sinh nữa. Là giáo viên thì bạn phải dạy tốt mỗi ngày, không phải để đối phó với thanh tra nhưng mà dạy tốt cho học sinh”.
Có lẽ vì người thầy trong xã hội Việt Nam như vậy mà người trẻ ngày nay quay lưng lại với nghề giáo, trường sư phạm thiếu vắng đầu vào có chất lượng. Phản ánh về thực trạng này, Bà Trần Thị Tâm Đan- nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội trong Hội thảo “Khoa học sư phạm trong chiến lược đào tạo giáo viên - yếu tố căn bản của đổi mới giáo dục Việt Nam” ngày 28-12-2011 đã mô tả: “Giáo viên cũ chuyển ngành, thế hệ trẻ thì quay lưng lại với nghề giáo. Một xã hội mà người thầy không ai muốn làm thì sẽ đi đến đâu?”. Một câu hỏi nhức nhối đáng cho mọi người suy nghĩ, vì nó liên quan đến hiện tại và tương lai của chúng ta và con cháu chúng ta, liên quan đến vận mệnh của cả dân tộc.
(Theo Nguyễn Khánh Trung/ Tia Sáng)
 
 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 633198 visitors (2120660 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free