.
  Những điều...loài ngựa
 


 

Trần-Đăng Hồng

 

1. Loài Ngựa Equus ferus gồm 3 loài phụ: (i) ngựa hoang (không thuần hóa) Equus ferus ferus ở vùng Tây Á (Eurasia), còn gọi ngựa Tarpan, đã bị tuyệt chủng vào khoảng cuối thế kỹ 19; (ii) loại ngựa hoang Przewalski (Equus ferus przewalskii) hay Ngựa hoang Mông Cổ, hay ngựa Takhi của vùng Trung Á, sa mạc Golbi, đang có nguy cơ tuyệt chủng; và (iii) loài ngựa nuôi ngày nay (Equus ferus caballus) là do thuần hóa từ loài ngựa hoang nói trên.

Ngựa hoang Przewalski ở Mông Cổ

 

 

Ngoài ra, loài ngựa sống hoang ngoài rừng hay đồng cỏ hiện nay như ngựa hoang Mustang ở Hoa Kỳ, hay Brumby ở Úc, hay nhiều giống ngựa hoang khác, là giống ngựa thuần hóa bởi con người bị sổng chuồng chạy trốn nơi hoang dã.

2.  Bà con gần của loài Ngựa (Equus ferus) trong chi Equus gồm có Lừa (donkey, ass) (Equus africanus asinus), Ngựa Kiang (Equus kiang) ở Tây Tạng, Ngựa Onager (Equus hemionus) ở sa mạc từ Syria đến Ấn độ, 3 loài Ngựa Vằn (Zebra) là Ngựa Vằn đồng cỏ (Equus quagga), Ngựa Vằn Núi (Equus zebra), và Ngựa Vằn Grevy (Equus grevyi).

Trong 7 loài trong chi Equus, chỉ có Ngựa và Lừa được con người thuần hóa. Lừa do thuần hóa từ loài lừa hoang Phi châu Equus africanus. Ngược lại, ngựa vằn chưa bao giờ được loài người thuần hóa để nuôi làm gia súc, vì tính tình bất thường, trở chứng và khó dạy. Cũng vậy, ngựa Onager và ngựa Kiang không dạy được, nên không được thuần hóa bởi con người.

 

Lừa và Ngựa Vằn

 

 

Ngựa Kiang Tây Tạng, Ngựa sa mạc Onager

 

3. Ngựa lai. Ngựa nuôi có thể lai với các loài ngựa khác trong chi Equus, nhưng đều cho con lai vô sinh (sterile), nghĩa là không sinh con được.

Con La (mule) là con lai giữa con Lừa đực và con Ngựa cái; ngược lại nếu cha là Ngựa đực còn mẹ là Lừa cái thì là con Hinny.

Zebroid là từ chung của con lai giữa các loài Ngựa Vằn với nhau.

Zorse là con lai giữa con Ngựa Vằn đực và Ngựa cái. Ngược lại, con lai giữa Ngựa Vằn cái với Ngựa đực thì gọi là Horbra.

Zonkey (hay Zedon) là con lai giữa Ngựa Vằn với Lừa.

Zony là con lai giữa Ngựa Vằn đực và ngựa lùn Pony cái; còn Zetlands là con lai giữa Ngựa Vằn và ngựa lùn Shetland Pony.

Ngựa Kiang có thể cho lai với ngựa nuôi, lừa, onager, ngựa vằn, nhưng con lai cũng vô sinh, như trường hợp con La.

 

Con Zonkey (lai giữa Ngựa Vằn và Lừa)

4. Con lai giữa các loài ngựa trong chi Equus đều vô sinh. Lý do là con lai có số nhiễm thể lẻ, không thể phân chia trong phân bào giảm nhiễm (meiosis).

Con Ngựa nuôi có 64 nhiễm thể, Lừa có 62, Ngựa Vằn có 32 và 46 (tùy loài). Như vậy, con La (Ngựa x Lừa) có 63 nhiễm thể (số lẻ) nên không phân bào giảm nhiễm được.

Ngựa nuôi có 64 nhiễm thể, chứa khoảng 2,7 tỉ cặp-base DNA (DNA base pairs), nhiều hơn Chó (2,5 tỉ cặp-base), nhưng ít hơn Người (3,2 tỉ cặp-base) và Bò (3 tỉ cặp-base)

5. Ngựa nuôi được tiến hóa trong khoảng 45 tới 55 triệu năm qua từ một loài động vật nhỏ có nhiều ngón chân thành loài ngựa lớn hiện nay, chỉ có một ngón chân. Việc thuần hóa ngựa hoang thành ngựa nuôi bắt đầu cách đây 4000 năm, đặc biệt quy mô cách đây 3000 năm. Việc thuần hóa ngựa thực hiện đầu tiên ở vùng Trung Á như UkraineKazakhstan.

6. Có rất nhiều từ để gọi con ngựa trong tiếng Anh, tùy theo tuổi và giới tính.

          Foal: ngựa con, đực hay cái, dưới 1 tuổi. Ngựa con còn bú, từ lúc sanh đến khoảng 5 tháng, còn gọi là suckling hay nursing foal, từ 5 đến 7 tháng khi bắt đầu biết ăn thì được gọi là weanling.

          Yearling: ngựa từ 1 đến 2 tuổi, đực hay cái.

Colt: ngựa đực con dưới 4 tuổi,

          Filly: ngựa cái con dưới 4 tuổi,

          Gelding: ngựa đực bị thiến,

Stallion: ngựa đực (không bị thiến) trên 4 tuổi,

Mare: ngựa cái trên 4 tuổi,

Thoroughbred: ngựa đua đực (colt) hay cái (filly) dưới 5 tuổi theo định nghĩa của người Anh. Theo người Úc thì dưới 4 tuổi.

7. Chiều cao ngựa đo từ đất đến đỉnh xương u đỉnh vai giữa cỗ và thân ngựa. Đơn vị đo là số lượng “hands” (chiều ngang lòng bàn tay) cộng thêm số “inches” còn lại. Một “hand” dài 4 inches tức 10,16 cm. Ví dụ một con ngựa cao “15.2 h”, có chiều cao 15 x 4 inches + 2 inches = 62 inches hay 157,2 cm.

Chiều cao và trọng lượng ngựa thay đổi theo giống, và điều kiện chăn nuôi. Ngựa cởi (riding horse) cao từ 142 cm đến 157 cm, nặng từ 350 kg đến 600 kg. Ngựa kéo (draft horse) khỏe to lớn hơn, cao 163-183 cm, nặng 700 – 1000 kg.

8. Dòng Ngựa Lùn Pony. Cũng thuộc loài ngựa, nhưng pony là loài ngựa tí hon, thấp hơn 147 cm (< 14.2 hands), có hình dạng khác hơn ngựa thường (chân ngắn, phần bụng giữa chân trước và chân sau khá dài, cỗ ngắn và thô, đầu ngắn, trán rộng), tính tình hiền hậu, thông minh. Ngựa Shetland Pony chỉ cao 102 cm.

Ngựa lùn highland pony

 

9. Màu sắc. Ngựa có nhiều màu sắc và mang nhiều từ để mô tả. Ngựa bạch (toàn màu trắng), ngựa kim (trắng chen ít đen), ngựa ô (đen tuyền), ngựa khứu (đen pha tí đỏ), ngựa hởi (đen pha nhiều đỏ), ngựa vang (đen pha đỏ tươi), ngựa hồng (đen pha đỏ đậm), ngựa đạm (trắng đen pha chút đỏ), ngựa tía (tím đỏ pha đen), ngựa vằn (trắng sọc đen).

Khoa học cho biết có 13 alleles khác nhau chi phối màu sắc và sọc của lông ngựa. Màu căn bản “đỏ” (chestnut) và “đen” chi phối bởi Melanocortin 1 receptor, theo đó màu “đỏ” mang liệt tính, và “đen” ưu tính. Ngoài ra, còn có nhiều gen khác làm giảm bớt ưu tính của “đen”, nên tạo ra một dải màu từ đen đậm (ô) đến xám.

Màu trắng (ngựa bạch) cũng thay đổi theo tuổi, thường thấy ở ngựa trung niên, hóa ra xám khi già hơn. Khi nhỏ, ngựa có lông xám có màu đậm hơn, khi lớn có màu sáng hơn, trắng hơn, nhưng vẫn giữ màu đen ở chân lông.

10. Tuổi thọ. Tùy theo giống, môi trường sống và cách nuôi, đời sống trung bình của ngựa nuôi là 25-30 năm. Ngựa thọ kỹ lục ghi trong Guinness Book tên Sugar Puff, chết năm 2007 ở tuổi 56, và ngựa tên Old Billy chết ở tuổi 62 trong thế kỹ 19.

11. Sinh dục. Chu kỳ động (rượng) đực (estrous cycle) của ngựa cái khoảng mỗi 19-22 ngày, xảy ra từ đầu mùa xuân đến mùa thu. Trong mùa đông, hiện tượng rượng đực không xảy ra. Ngựa con mới 18 tháng tuổi có khả năng tình dục và sanh đẻ (có lẻ vì vậy mà có thành ngữ “đĩ ngựa”), nhưng thông thường cho ngựa nhảy đực khi quá 3 tuổi. Bốn tuổi mới thật sự trưởng thành ở loài ngựa. Ngựa mang thai 320-370 ngày, trung bình 340 ngày, thì đẻ. Đẻ một con, rất hiếm khi sanh hai. Thông thường sanh vào mùa xuân. Vài giờ sau khi sanh, ngựa con chạy nhảy được. Ngựa con bú mẹ, sau 4-6 tháng thì bắt đầu ăn.

12. Ruột ngựa. Ngựa ăn cỏ và nhiều loại thực vật khác, ăn suốt ngày. Ngựa có bao tử tương đối nhỏ (so với thân thể), nhưng có bộ ruột rất dài,quấn kế nhau (chứ không “thẳng như ruột ngựa” như theo thành ngữ Việt). Một con ngựa nặng 450 kg mỗi ngày ăn 7-11 kg thực phẩm, uống 38-45 lít nước. Ngựa không thuộc nhai lại (như con bò), chỉ có một bao tử, nhưng khác với người là ngựa có khả năng tiêu hóa cellulose. Ngựa không biết nôn mửa, nên khi bị ngộ độc có thể bị chết dễ dàng.

13. Ngũ quan. Vì có nhiều loài thú ăn thịt sát hại sống chung quanh, để sinh tồn nòi giống, ngựa tiến hóa với ngũ quan phát triển đề cao cảnh giác thù địch.

Ngựa có mắt lớn nhất trong loài động vật có vú, mắt nằm hai bên mặt, nên có một nhản quan rộng thấy hơn 350°, mắt tinh thấy rõ ban ngày cũng như ban đêm, nhưng thuộc loại nhị sắc (dichromatic), tức là chỉ nhận định được khi màu chứa không quá hai quang phổ (spectral lights), ngựa không phân biệt được màu đỏ và màu xanh, màu nào có chứa quang phổ đỏ thì ngựa thấy nhòa lẫn với màu xanh.

Khứu giác ngựa nhạy tốt hơn người, nhưng thua loài chó. Đặc biệt ngựa rất nhạy cảm với dầu thơm, đàn bà không nên xức dầu thơm khi gần ngựa, vì làm chúng trở nên rượng đực hay cái. Ngựa có tới 2 cơ quan khứu giác, một ở mũi giúp phân loại mùi, cơ quan thứ hai cũng trong mũi tên Vomeronasal organs hay Jacobson’s organs. Hai hệ thống thần kinh nối tới óc, có nhiệm vụ phân tích các mùi hormones kích động (pheromones), như mùi của thức ăn, mùi của thù địch sát hại, hay mùi tình dục của ngựa đối ngẫu.

Thính giác của ngựa rất tốt, vành tai ngựa có thể xoay 180°, hai tai xoay ngược nên có thể nghe 360° mà không cần quay đầu. Âm thanh có thể gây bực bội cho ngựa. Ngựa thích yên tỉnh, chịu đựng được nhạc êm dịu, nhưng khi bắt nghe nhạc kích động như Jazz, nhạc rock  thì chúng trở nên cáu kỉnh. Khuyến cáo là không nên cho ngựa nghe nhạc, dầu êm dịu, có cường độ trên 21 decibels. Nghiên cứu ở Úc cho thấy ngựa đua nghe radio nói bình luận thường bị bịnh lở bao tử nhiều hơn ngựa nghe âm nhạc, hay không nghe radio.

Xúc giác ngựa rất tốt, chúng cảm nhận những động chạm nhẹ như côn trùng bay đậu lên thân. Phần cơ thể cảm nhận nhất là chung quanh mắt, tai và mũi. Ngựa có giác quan giữ thăng bằng rất cao, một phản xạ giữa cơ thể và chân, nên ngựa ít khi té ngã.

Vị giác cũng rất phát triển, lưỡi phân biệt được loại cỏ nào thích ăn, loại nào không nên ăn, loại nào có độc tố. Lưỡi ngựa có khả năng lừa bỏ, như với hạt thức ăn thật nhỏ nó không thích.

14. Móng ngựa. Ngựa quan trọng ở móng, cần chăm sóc kỹ. Móng ngựa có thành phần cấu tạo như móng tay móng chân người, bao quanh bởi chất sụn và nhu mô mềm có chứa máu. Sức nặng con ngựa đè lên 4 móng này, khi đứng hay chạy. Cũng như móng tay người, móng ngựa cũng tăng trưởng dài.  Ở ngựa hoang, con ngựa phải chạy nhảy nhiều để tự làm mòn móng cho thích hợp đều kiện đất đá nơi chúng sống. Ngược lại, ở ngựa nhà cứ mỗi 5 đến 8 tuần   chủ ngựa phải cắt cắt giũa móng ngựa. Để bảo vệ móng ngựa, nhất là trên nền đất đá lởm chởm, cứng, ngựa được đóng móng sắt, và thỉnh thoảng cũng phải cắt giũa móng lại.

15. Cử động. Có rất nhiều từ mô tả động tác đi hay chạy của ngựa: đi, bước, rảo, chạy, nhảy, kiệu, phóng, vút, phi (bay), tế, sải, lao, vọt, phốc, v.v.

Tựu trung, có 4 cách đi chạy căn bản ở ngựa: đi chậm (four-beat walk) với vận tốc 6,4 km/giờ; chạy nước kiệu (two-beat trot or jog) với vận tốc 13-19 km/giờ; phi (canter, lope, a three-beat gait) với vận tốc 19-24 km/giờ; và phi nước đại (gallop) với vận tốc trung bình 40-48 km/giờ, nhưng khi nước rút trong ngắn hạn có thể tới 88 km/giờ.

Trong Anh ngữ, ngoài 4 cách đi chạy căn bản trên, còn có rất nhiều từ mô tả khác rất khó dịch tương ứng với tiếng Việt, như “two-beat pace”, “four-beat ambling", “rack”, “running walk”, “tölt” hay “diagonal fox trot”, v.v.

16. Tánh nết. Ngựa có rất nhiều thù địch chung quanh rình rập ăn thịt như cọp, sư tử, beo, gấu, chó sói, v.v. và người, vì vậy chúng có phản ứng chống trả hay tẩu thoát. Khi cảm thấy bị đe dọa, ngựa kinh hoàng, ngẩng đầu cao, hai tai vểnh sang hai bên, thấy kẻ thù nguy hiểm thì chạy trốn. Nếu không chạy kịp, hay có ngựa con bên cạnh thì nó đứng dựng lên, sẳn sàng chiến đấu. Trong trường hợp nghi ngờ, phân vân thì một tai hướng về phía trước, tai kia hướng về phía sau để quyết đoán có kẻ thù hay không. Khi hoảng sợ thì đá hậu, tức giận thì dướn miệng, nhe răng, tai cụp về phía sau. Loài ngựa có cách giao cảm với đồng loại qua một loại âm thanh phát từ miệng như thở phì trong lúc đầu gật lên gật xuống (tỏ sự hoan hỉ), hay thở dài như cằn nhằn (chán ngán trở lại làm việc), chân đập vào đất (đòi ăn), hí dài (báo động nguy hiểm), hai con kề sát nhau, liếm lông âu yếm (tỏ sự yêu thương), v.v.

17. Tính khí. Trong từ ngữ chuyên môn về ngựa, ngựa được phân loại “ngựa máu nóng” (hot-bloods), “ngựa máu lạnh” (cold-bloods), “ngựa máu ấm” (warm-bloods), không phải dựa trên thân nhiệt, mà dựa trên tính khí và năng lượng của ngựa.

“Ngựa máu nóng” là các dòng ngựa phương đông như ngựa Á Rập (Arabian horse), Akhal-Teke (ở Turkmenistan), Barb (ở Bắc Phi), ngựa Thoroughbred (tuyển từ ngựa phương đông) của Anh. Ngựa máu nóng dễ dạy, can trường, tính khí tốt, khôn, chạy nhanh và linh động. Thân thể cân xứng, mỏng da, và chân dài. Ngựa này huấn luyện để chạy đua và  dung trong kỵ binh.

Dòng ngựa Á Rập

“Ngựa máu lạnh” là các dòng ngựa có cơ bắp, có sức mạnh, tính nết hiền lành, thích hợp việc kéo xe hay kéo cày. Dòng ngựa Shire, nỗi tiếng mạnh, tuy chậm, dùng cày cánh đồng đất sét.

Ngựa Shire dùng kéo cày

“Ngựa máu ấm” là các dòng ngựa cởi (riding horse), như Trakehner hay Hanoverian, do lai tạo giữa ngựa chiến với ngựa Á Rập hay Thoroughbreds. Ngựa  có thân hình cân xứng, mảnh dẻ, lớn con, tính hiền hòa. Để tạo ngựa cởi nhỏ con hơn, thường dùng ngựa Pony.

18. Trí thông minh. Ngựa là động vật thông minh, có khả năng ghi nhận, phán đoán và trí nhớ tốt. Ngựa học khá nhanh những gì huấn luyện viên muốn dạy chúng.

19. Ngựa có thể ngũ khi đứng hay khi nằm. Ngựa không ngũ một hơi dài, mà chia làm nhiều lần đứt đoạn. Trong một ngày, ngựa ngũ đứng, đúng hơn là ngơi nghỉ, 4 đến 15 giờ, ngũ nằm trong vài phút đến vài giờ tối đa. Ngựa ngũ say khi ở thế nằm. Tổng cộng mỗi 24 giờ, ngựa ngũ thật sự khoảng vài giờ, gồm nhiều giấc ngũ kéo dài khoảng 15 phút/lần. Trung bình, ngựa nuôi ngũ mỗi ngày 2,9 giờ. Nếu không được nằm trong nhiều ngày liên tục để ngũ, ngựa có chứng mất ngũ, trong trường hợp này ngựa có thể ngũ say trong thế đứng, không biết trời trăng gì nữa. Ngựa sống cô đơn thường ngũ đứt đoạn, dễ bị đánh thức vì bản năng tự vệ. Ngược lại, trong đám ngựa đông, một số ngựa ngũ, một số thức canh chừng và thay phiên nhau ngũ.

 

 

Reading, 1/2014

Trần-Đăng Hồng

 
 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 693788 visitors (2231980 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free