.
  Cải lương xưa và nay
 
16/10/2014





(Loạt bài thân tặng quý bạn thích nghiên cứu văn hoc nghệ thuật)

Vào những thập niện 60,70, có lẽ là thời hoàng kim của cải lương. Bấy gời đó là món ăn tinh thần được yêu chuộng nhất, vượt trội hơn cả ca nhạc và thoại kịch. Vé chợ đen luôn có mặt ở tại cửa rạp với giá có khi gấp đôi, mà người xem vẫn chấp nhận. Hiện tượng “mua dàn” thường xãy ra, vì người “mua dàn” cầm chắc tiền lời trong tay!

Tại sao cải lương thời ấy lại được yêu chuộng như vây?

Thứ nhất là đào kép có thực tài, diễn xuất nhập vai, ca hay, múa giỏi; và có thể nói là khá gần gũi với quần chúng.

Những nghệ sĩ nầy đã được quần chúng ái mộ, và đã phong cho họ những mỹ danh xứng đáng với tài năng của họ. Đó là “Đệ nhất danh ca miền nam” cho Út Trà Ôn; “Sầu nữ” cho Út Bạch Lan; “Cải lương chi bảo” cho Bạch Tuyết; “Thanh sắc vẹn toàn” cho Thanh Nga; “Tiếng ca huyền diệu” cho Minh Cảnh…

Thứ hai là nhờ nhiều soạn giả tài hoa, mang nhiều tâm huyết, đã cho ra nhiều kịch bản (vở tuồng) xuất sắc, nội dung khai phóng, gây ấn tượng mạnh cho người xem. Những vở tuồng đó như đã hoà theo máu, lưu thông trong huyết quản của ngưòi xem, mà cho đến tận hôm nay, mọi người còn nhắc nhở, lưu luyến; thậm chí có người thuộc lòng một vài đoạn trong những vở tuồng ấy!

Đó là Hà Triều Hoa Phượng với Tấm Lòng Của Biển, Nửa Đời Hương Phấn, Tuyệt Tình Ca (viết chung với Ngọc Điệp)…. và nhất là Con Gái Chị Hằng. Vở nầy đã diễn suốt 21 đêm liên tục tại rạp Nguyễn Văn Hảo (Rạp Công Nhân bây giờ)! Đó là Thu An với Nắng Chiều Trên Sông Dịch, Hai Chiều Ly Biệt, Lá Của Rừng Xanh; Đó là Qui Sắc với Người Vợ Không Bao Giờ Cưới, Khi Rừng Mới Sang Thu… ; Đó là Nguyên Thảo với Tâm Sự Loài Chim Biển…vv…

Những nhân vật của những vở tuồng ấy đã “bình dân hoá” trong quảng đại quần chúng: Người ta đã gán tên những nhân vật trong vở tuồng cho những ai ngoài đời có những hoàn cảnh tương tự, như “Phà Ca” (Trong Người Vợ Không Bao Giờ Cưới), “Áo Vũ Cơ Hàn” (Trong Tâm Sự Loài Chim Biển), “Ông Cò Quận Chín” (Trong Tuyệt Tình Ca)…

Tuồng tích đã hay, mà “văn chương” trong các vở tuồng cũng được các soạn giả trao chuốt kĩ càng; lại được đưa vào nhạc, nó càng bóng bẩy, dịu êm, làm người xem / nghe mê mệt:

“Lòng hẹn lòng, khi chia tay, như xé nát tâm hồn ai.
Trời lạnh lùng, mây cô đơn, buồn giăng khắp miền quan tái…” (Mắt Em Là Bể Oan Cừu).

Hay:

“.....Thì chị cũng sẽ về với em,
Để mừng ngày em xuất giá.
Cho vui lòng ba với má,
Chị cũng nở mặt nở mày với lối xóm bà con...” ( Nửa Đời Hương Phấn).

Những bài ca như vậy, đến nay đã hơn bốn mươi năm mà vẫn còn người thuộc lòng, thường hát!

Lại có những lời văn đẹp như một bài thơ:

“Mới đầu hôm mà tóc ta bạc gần nửa mái,
Mới đầu hôm mà rượu cạn mấy mười ly.
Mới đầu hôm mà sự thế đổi thay,....” (Thuyền Ra Cửa Biển)

Hơn thế nữa, có những câu xứng đáng là danh ngôn:

“Thà ngu như con thiêu thân mà chết ngoài ánh sáng, cón hơn khôn như con chuột mà chết trong ống cống” (Tấm Lòng Của Biển).

Chúng tôi nhớ, sau khi vai Tấn (Hữu Phước đóng), nói câu nầy thì cả rạp vỗ tay rần rần; một ông ngồi kế bên buộc miệng: “ Coi cải lương mà nghe “văn chương” không, cũng đủ đồng tiền!”!

Hơn bốn mươi năm trước, khán giả còn có trình độ thưởng thức như vậy, nói chi đến ngày nay? Xã hội càng phát triển thì tầm thưởng thức nghệ thuật của khán giả từ đó cũng có sự đòi hỏi cao hơn, nếu các tác giả thời nay không chịu nắm bắt điều nầy thì khó thành công, ngược lại vô hình trung coi thường khán giả; và tất nhiên sẽ bị tẩy chay!

Sau năm 1975, vì hoàn cảnh xã hội mà món ăn tinh thần còn nhiều thiếu thốn. Nhưng đói thì phải ăn: Các loại phim ảnh dù rẻ tiền cũng phải xếp rồng rắn để mua vé. Cải lương lúc đó không được diễn những vở tuồng cũ, và phần lớn nghệ sĩ ưu tú “xưa” mỗi người một nơi, hầu hết bị “rã gánh”; Những nhân tố mới đã được thành lập với những nghệ sĩ tay nghề non choẹt, với những vở tuồng mà nội dung đã gây nhàm chán người xem cũng được “ăn theo” một giai đoạn, nhưng dần dần các rạp cải lương vắng khách như chợ về khuya!

Tại sao vậy? Có người bảo, cũng chỉ vì băng đĩa quá tiện lợi và rẻ tiền, nên người ta không đến rạp nữa. Nói như vậy thì có phần thiếu thuyết phục, là ngụy biên, và có ý bênh vực cho môn nghệ thuật đã trong giờ hấp hối nầy. Hỏi lại, dù không đến rạp, ở nhà họ vẫn coi cải lương trên TV? Câu trả lời rất sượng sùng là... rất, rất ít người coi! (mà người coi là những lứa tuổi già nua còn sót lại!)

Tại sao thế? Như đã phân tích ở trên. Cải lương lúc trước được ưa chuông là nhờ ba yếu tố: Diễn viên thiện nghệ, Soạn giả tài ba, và kịch bản xuất sắc.

Cải lương ngày nay, với nghệ sĩ có người cũng có huy chương vàng nầy nọ, nhưng lối diễn và giọng ca cũng không làm người xem vừa ý: Có một nữ nghệ sĩ trong thời gian “thiếu thức ăn tinh thần”, cũng đã làm mưa làm gió trên sân khấu, nhưng có bao nhiêu người mến mộ? Bởi vì cô ta quá “điệu”, làm duyên làm dáng thái quá, khiến người coi phải “mắc cở giùm”; hay có một nam nghệ sĩ giọng ca eo éo như con gái, diễn xuất với chân tay cứng ngắt . Diễn viên như vậy, làm sao tồn tại với tầng lớp khán giả có tầm mức thưởng thức như hiện nay ? Mới hay, huy chương là một đường, thực tài lại là con đường khác!

Về soạn giả và kịch bản (thường vốn đi đôi) thì rõ là một vấn đề đáng buồn: Chưa thấy có vở tuồng nào sau năm 75 được nhiệt liệt hoan nghênh; mà thường thì xem qua rồi, người ta quên liền, không có chút mải mai vấn víu vào tâm thức!

Điều cần nói thêm là, người xem cải lương ngày nay lại rất bực mình về câu vọng cổ đã bị soạn giả phá đi nét truyền thống, nhào nắn thành dị hình dị dạng: Ca sĩ phải nổi gân cổ “nuốt” hơn một trăm chữ trước khi “xuống hò”(câu 1)! Đó là sự chế biến lập dị, làm người ca mệt, mà người nghe / xem cũng “thấy mệt”, thấy ngao ngán, thấy chán chường! Các soạn giả ấy đã cố tình “làm cho lạ”, nhưng đã vô tình làm cho bản vọng cổ hết... “mùi”, vốn là sở trường của cổ nhạc.

Cải lương càng ngày càng vắng khách, kể những người lớn tuổi ở quê, vốn là thành phần “mê” cải lương nhất; giờ họ cũng lơ là.

Nếu tình trạng diễn viên không vừa lòng khán giả; và tuồng tích thì “có bao nhiêu đó làm hoài”, thì không bao lâu, cải lương sẽ trút hơi tàn!

Điều bất hạnh cho cải lương là “Tre đã tàn, mà măng chưa mọc!”

Đó là một thực tế không thể phủ nhận./.

KHA TIỆM LY
Kính mời thưởng thức bài Vọng cổ : THƯƠNG QUÁ BẠC LIÊU của tác giả Kha Tiệm Ly , đoạt giải khuyến khích Hội thi Vọng cổ tại tỉnh Bạc Liêu
THƯƠNG QUÁ BẠC LIÊU
(Giải KK)
LÝ CHIM XANH
Nơi nơi sông nước mênh mang, ghe tàu ngược xuôi
Xa trông gió đùa hương lúa mà tim rạt rào
Giờ quê hương đổi thay muôn phần
Bao người yên vui ấm no
Đậm đà hạt muối, ờ ớ …
Mặn tình quê tôi.

VỌNG CỔ
Câu 1.
Hơi nước mặn hoà theo làn gió chướng, nhớ quá quê hương nên vội bước chân về... Cảnh sắc hôm nay thay đổi muôn bề... Sao ngơ ngác như một người khách lạ, mà trong lòng lại rộn rã niềm vui ? (-) Quê tôi giờ đẹp lắm ai ơi. Đường nhựa phẳng phiu, phố chợ đông người. Dưới vạt nắng hồng đàn trẻ reo vui, hâm hở đến trường bên trang sách mới (-)
Câu 2.
Ngọn đông phong mang theo tình biển lớn, cho trái nhãn năm xưa thêm vị thơm lừng… Nặng tình quê nên hạt muối mặn nồng… Tàu về bến đầy khoang tôm cá, lượn thủy triều cũng chia sẻ những niềm vui (-). Hạt phù sa thương cây lúa oằn sai. Đồng bát ngát cho chim trời thẳng cánh. Tắc ráng ngoài sông ngược xuôi năm tháng, người đến cho người bao no ấm bình yên (-)
LÝ MỸ HƯNG
Về đây...
bao ngày nắng mưa quê người
Nôn nao cõi lòng ta
theo từng bước đi rộn ràng
Tình yêu quê hương chan chứa...
với từng khúc sông
Sông đã đưa ta qua tuổi thơ người ơi
Dẫu cho muôn đời
lòng ta hằng luôn mơ ước
Thảnh thơi yên lành...
in như cánh vạc trời xuân

VỌNG CỔ
Câu 5.
… Để mỗi chiều nhìn chim bay về tổ, mà thương nhớ quê hương trăn trở suốt đêm dài... Bạc Liêu ơi, ta mong đợi từng ngày....Mười lăm năm làm thân viễn xứ, đâu hay quê nhà đã cất cánh vươn vai (-). Như mẹ hiền luôn mở rộng vòng tay, chờ mỗi bước con về bên mái ấm. Nước biển xanh trong cho nghĩa tình thêm mặn, lòng bao dung che chở những ngư thuyền (-)
Câu 6.
Ai đã từng cất bước ly hương, mới thấy được quê mình đẹp nhất. Như hạt phù sa nặng oằn ơn đất, tôi nhớ buổi đến trường qua lại chuyến đò ngang. Thương nhánh lục bình trôi dạt mấy dòng kênh, thương hột lúa đã nuôi mình khôn lớn. Thương mẹ cha một đời lận đận, thương bài Dạ Cổ Hoài Lang tròn đạo vợ chồng (-). Người quê thật thà như hột lúa củ khoai, nhưng hào phóng như thời đi mở cõi. Dù mai kia sao dời vật đổi; lòng dặn lòng, ôi thương quá Bạc Liêu (-) ./.
kha tiêm ly
 

 
 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 630177 visitors (2115975 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free