.
  Đánh bắt hải sản...
 
31/10/2013

 
 

Đánh bắt hải sản và nuôi trồng thủy sinh tại Kiên Giang (P1)

GS Tôn thất Trình
 

 
 Ve vẽ vè ve, bắt vè con cá.
 No lòng phỉ dạ là con cá cơm,
 Không ướp mà thơm là con cá ngát.
 Hụt cẳng  chết chìm là con cá đuối.
       Lớn năm nhiều tuổi là cá bạc đầu.
       Đủ chữ xứng câu là con cá đối.
       Nở mai tàn tối là cá vá hoa.
     Trắng nuốt beo da là cá úc thịt.
      Dài lưng hẹp kích là cá lòng tong.
      Ốm yếu hình dong là con cá nhái.
       Thiệt như lời vái là con cá linh.
(  Hát ru miền Nam  “Vũ hội cá tôm”  Trầm Hương trích dẫn – 2000 )
Ở Kiên Giang
 
Nhờ 198 km  bờ biển  và tài nguyên hải sản dồi dào, Kiên Giang là một vùng  đánh cá biển quan trọng nước nhà  và nuôi trồng thủy sản – aquaculture bờ biển quan trọng.  Từ năm 2010, Kiên Giang sẽ  cố gắng phát triễn nuôi trồng thủy sản công nghệ. Nhắc lại là cá nuôi thâm canh – intensive nước ngọt ở ĐBSCL cũng như ở Kiên Giang là nuôi lồng dưới bè – cages thời Đệ Nhất Cọng Hòa, đã khuếch trương khá mạnh mẽ ở Long Xuyên – Châu Đốc ;   nuôi ao, hồ- ponds  và rào đăng quầng- fences , tỉ trọng thả cá lớn.  Nuôi cá da trơn, râu mèo- catfish Pangasius spp. trong ao tăng mau lẹ, và nuôi lồng bè  giảm khá  mạnh, còn  nuôi rào cũng dần dần gia tăng, dù đây là một kỷ thuật  mới mẽ cho vùng Châu thổ sông Cửu Long.  Ở ĐBSCL, năng xuất nuôi lồng bè  trung bình  trên 100kg/m3/vụ , năng xuất ao là từ 183 đến 582 t/ha/vụ  tùy tỉ trọng thả cá  giống con ( theo Nguyễn TP và các đồng nghiệp 2004 và Lê 2004 ), năng xuất  rào đăng có thể đạt 345 t/ha/vụ.  Năng xuất nông trang  lúa –cá rice -cum -fish  biến thiên từ  482 – 808 kg/ha , trong khi năng xuất   các trại gia súc, gia cầm  – cá livestock –fish polyculture  là 467- 1456 kg/ha tùy tỉ trọng thả giống ( cũng theo Nguyễn TP và đồng nghiệp -2005 ).  Nuôi tôm càng xanh khổng lồ là một cách nuôi tương đối mới cho Việt Nam  và phần lớn tập trung ở ĐBSCL ; nuôi trong ao, nhốt bải rào – pen  và hội nhập  hay luân canh- xen lẫn với  sản xuất lúa hay  nuôi luân phiên  lúa  với tôm, được xem là một ngành tiềm năng đáng phát triễn thêm tương lai. Năng xuất tôm ở các hệ thống này là 100- 887 kg/ha/một vụ  cho các hệ thống hội nhập trồng lúa nuôi tôm và khỏang 384- 1681 kg/ha / vụ  cho hệ thống luân phiên  lúa – tôm (cũng theo Nguyễn TP – 2005 ) và chừng 140 – 160 kg/m2 /vụ ( theo  Vũ và đồng nghiệp -2005). Nông trang nuôi tôm biển – marine shrimp thường thấy nhiều nhất, nhưng mức độ thâm canh – cường tính khác nhau. Theo bộ Thủy Sản,  thì nông trang nuôi tôm năm 2003  là 3%  bán thâm canh- semi intensive  và thâm canh- intensive, 22 % quảng canh – extensive  và 75 % là các hệ thống cải thiện  quảng canh hay bán thâm canh . Sản xuất  quảng canh cải thiện là 0.25 – 0.30 t/ha /vụ , bán thâm canh cải thiện là 2.5- 3.0/t/ha/vụ và  thâm canh cải thiện 5.0- 7.0 t/ha /vụ.  Nuôi cá biển  đa vây- fin fish hay cá mú, cá sòng – groupers  thấy nhiều ở  Quảng Ninh, Hải Phòng, Nghệ An và Khánh Hòa. Lồng lớn nuôi bè cá côbia mới du nhập vài năm nay từ Na Uy- Norway , Norvège . Đa số lồng nuôi tôm hùm Panulirus  là lồng nhỏ, thuộc các tỉnh miền Trung, tôm hùm giống  thu lượm  hoang dã.

                   ( Tôm hùm) ảnh internet
Có lẽ cũng không nên quên  các lòai bào ngư  vành tai, bào ngư bầu dục , bào ngư dài (  trong số 4 loài bào ngư có giá trị ở Việt Nam , lòai bào ngư  chín lỗ- cửu khổng chỉ  sống ở các đảo miền Bắc theo Lê Đức Minh- 2000 ? ) ở một số  ở các đảo  nhỏ Hòn Mây, Hòn Rút , Hòn Thơm,  Hòn Vang…. quanh đảo Phú Quốc và đảo Thổ Chu. Một điều đáng ghi nhớ thêm là vỏ bào ngư có tầng xà cừ màu sắc óng ánh  được sử dụng  làm đồ trang sức , khảm xà cừ trong công nghệ sơn mài và làm nguyên liệu nuôi cấy ngọc trai giá trị cao hơn ( Ân Độ, /78*Trung Quốc đã làm, còn Việt Nam ? ), ngòai  thịt và vỏ ra Thái Lan còn xuất khẩu phủ tạng bào ngư sang Hàn Quốc  để chế biến keo phẩu thuật y học . Kiên Giang  còn là nơi sản lượng sò (huyết ? ) lớn nhất nước ( Hòang thị Bích Đào -2000 ), gồm  lòai sò tròn – sò ổi Andara granosa và sò dài A. nodifera ….
Những năm vừa qua, chuyễn hướng từ nông nghiệp  qua nuôi trồng thủy sản tỉnh nhà  đã tỏ ra hửu hiệu, tạo nhiều công ăn việc làm cho dân tỉnh và tăng gia mức sống tiêu chuẩn dân  gian ở vùng tái thiết . Nay Kiên Giang  có 71 484 ha  nuôi trồng thủy sản, trong khi năm 2002 chỉ  47 100 ha . Tỉnh nhà có 37 trại nuôi  con giống hải sản, nhưng như vậy cũng chỉ mới thỏa mãn 30 % nhu cầu ngư dân – nông dân tỉnh.  Trên phương diện đánh bắt cá  ngòai khơi, Kiên Giang có 7 462 tàu đánh cá. Sáu tháng đầu năm 2013, Kiên Giang đã đóng thêm được  161 tàu đánh cá mới, tổng số cá đánh bắt được là 143 869 tấn nữa năm 2013, tăng gần gấp đôi  so với các năm  1995 – 2002,  từ  131 100 tấn năm  1995  đến  184 000  tấn năm  2002. Từ lâu Kiên Giang là tỉnh khai thác cá biển lớn nhất nước nhà , vượt xa tỉnh Cà Mau  hạng nhì các tỉnh ĐBSCL( năm 2002 là 94000 tấn ), hơn hẳn tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu  hạng nhất  các tỉnh miền Đông Nam Bộ  ( năm  2002 là 123 800 tấn ) hơn tỉnh Bình Định  hạng nhất  các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ (  66 700 tấn ) và  gấp 11 lần hơn TP Hải Phòng hạng nhất Đồng Bằng Sông Hồng  ( 15 600 tấn ).  Đáng nói  là chương trình hửu hiệu hóa khai thác  cua bơi  biển xanh và đỏ- blue and  red swimming crabs   thiết lập năm 2012.  Cố gắng thông tin hiểu biết tòan diện hơn cho các cộng đồng địa phương, tránh lạm thác nguồn tài nguyên tỉnh nhà hiếm có này và phổ cập các kỷ thuật đánh bắt cua  bền vững hơn v.v… . Xuất khẩu  cua biển xanh và đỏ  tương đối còn nhỏ, nhưng đây là ngành đánh bắt có trị giá đứng hạng nhì  hải sản xuất khẩu,  chỉ sau cá ngừ – tuna .  Khai thác được cua biển đỏ ở nhiều tỉnh trong nước, nhưng cua biển xanh – blue swimming crab Portracus pelagius chỉ khai thác được ở Kiên Giang mà thôi . Năm 2010  giá trị xuất khẩu  cua biển xanh , đa số sang Nhật, trị giá là  110 triệu đô la Mỹ ! 20 000  ngư dân Kiên Giang sinh sống đánh bắt cua biển xanh.  
Trung tâm thủy sản tỉnh đã  tổ  chức 112 lớp huấn luyện cho 4 348 người, bao gồm 18 kiểu mẩu  sản xuất và nhiều lọai hải sản nuôi, kể cả tôm sú,  ốc hương – sweet snail( ? ) mytilus smaragdnus( ? ).  Hai cảng đánh cá  là Tắc Cậu và Dương Đông tổn phí chừng 6 triệu đô la Mỹ – gần 91 tỉ đồng VN đã xong, và đang xây dựng  các cảng đánh cá  Xảo Nhao, Ba Hòn , Tô Châu và Chợ Cá Lại Sơn, cùng hai dự án cảng tránh bảo tố là Hòn Tre và Cầu San, trụ cầu cắt sóng – cutwater  Dương Đông và cảng cá Linh Huỳnh.
Sơ lược về khai thác  vài đặc điểm  tài nguyên  thủy sản Việt Nam
 
           Từ 60 000 tấn năm 1976,  sản lượng thủy sản Việt Nam  lên đến 5.7 triệu tấn năm 2012,  nghĩa là  gần 100 lần hơn và trị giá xuất khẩu chỉ là 11 triệu đô la Mỹ năm 1980,  lên đến  6. 8 tỉ đô la năm 2012,   nghĩa là cũng trên 60 lần hơn, nhờ đất nước thanh bình  trở lại, khai thác được những vùng  đất đai – sông nước- biển cả xa xôi… , áp dụng và phổ biến đựợc  kỷ thuật khoa học  cập nhật, cận đại  của «  Cách Mạng Xanh Dương – Blue Revolution » thế giới.
          Đầu thập niên 1960 , ngành nuôi trồng thủy sản bắt đầu  với những hệ thống nhỏ bé  quảng canh tỉ như  lúa – cá , gia súc –cá, và ao đất – earthen ponds . Ngành này tăng trưởng mạnh mẽ  hai thập niên cuối này là một thành quả  trực tiếp việc đa dạng  nông trang và thích nghi sản xuất các lòai thủy sản xuất khẩu được, tăng gia nhiều mức độ cường tính thâm canh. Các hệ thống nuôi trồng khá đa dạng tùy theo các điều kiện địa lý  khí hậu. Miền Bắc  chủ trì nuôi cá nước ngọt trong ao, lúa – cá và nuôi cá biển trong lồng – marine cage culture.  Miền Trung  chuyên nghiệp hơn  nuôi tôm sú lớn – giant tiger prawn và nuôi  lồng tôm hùm, cá  dạng vây – fin fish ở  biển. Miền Nam  nuôi thủy sản đa dạng nhất  gồm ao hồ , hàng rào đăng quầng và  lồng bè  các lọai cá da trơn ( cà  râu mèo- catfish đặc biệt nhóm  Pangasius  spp. ( cá ba sa P. boncourti,  cá bông lau  P. krempfii, cá tra  P. hypophthalmus, cá hú P. conchophilus, cá vồ  cờ P. sanitwongsei , cá vồ đốm ? P.  larnaudii,  cá dứa P.  lolyuranodon,  cá xác sọc P.macronema,  cá xác bầu P. pleurotaena, cá tra dầu P. gigas …), nhiều mức độ cường tính  nuôi tôm sú khổng lồ và các hệ thống hội nhập  lúa – cá, lúa -tôm và nuôi trồng  ở các rừng sát – mangrove – cum aquaculture.
Năm 1976 , cả nước Việt Nam chỉ nuôi trồng sản xuất  59 000  tấn  và năm 1980  lên đến 180 000 tấn. Trị giá tổng số thủy sản đánh bắt lẫn nuôi trồng xuất cảng được năm 1980, chỉ trị gíá là 11.2 triệu đô la Mỹ . Đầu thập niên 1980, mới khởi sự nuôi tôm sú khổng lồ  Panaeus monodon thương mãi để xuất khẩu.  Năm 1990, nuôi trồng thủy sản mới đạt 213 700  tấn, nhưng năm 2000  đã đạt  418 000 tấn. Trị giá xuất cảng thủy sản Việt Nam , năm 1990 chỉ là 205 triệu đô la Mỹ;  năm 20000 đã tăng 6 lần hơn,  lên đến gần 1.5 tỉ ( ngàn triệu ) đô la Mỹ. Năm  2004, nuôi trồng thủy sản chiếm  đến 902 000 ha, sản xuất 1. 150 triệu tấn , trị giá trên 1.44 tỉ đô la Mỹ $US ở  tổng số trị giá xuất khẩu thủy sản là 2.397 tỉ đô la. Năm  2006 là năm diện tích nuôi trồng trên 1 triệu ha, là 1050 000 ha, trong khi năm 1995  chỉ mới chút ít   trên nữa triệu ha, là 555 100 ha. Năm 2007,  đánh dấu một cột mốc chuyễn tiếp đáng kể là mức sản xuất thủy sản nuôi trồng  đạt 1 942 000 tấn cao hơn mức thũy sản đánh bắt – capture fisheries ( đa số ở biển ) chỉ  đạt  1 876 000 tấn. Và các năm kế tiếp  2008 – 2010 , khuynh hướng này tiếp diễn ( 2008 nuôi trồng 2.435 triệu tấn, đánh bắt 1.937 triệu  tấn ; năm  2009 là 2. 67 triệu tấn so với  2.068 triệu tấn và năm 2010  là 2. 823 triệu tấn so với 2.280 triệu tấn )Năm 2012, tổng sản xuất thủy sản là 5. 7 triệu tấn , nuôi trồng là 3.15 triệu tấn và đánh bắt là 2.2 triệu  tấn ;  trị giá xuất khẩu thủy sản   là 6.8 tỉ đô la Mỹ  so với  6.15 tỉ năm 2011 và 5 .03 tỉ  năm 2010  . Cao hơn hẳn xuất khẩu  7.5 triệu tấn gạo  và trị giá  4.73 tỉ  năm 2012, như đã kể trên.  Danh xưng ĐBSCL ngày nay phải là « thúng lúa và vựa thủy sản » không chỉ là  « một trong hai  thúng lúa, hai đầu đòn gánh phía giữa là Miền Trung » !
Năm 2000, trong tổng số 4 triệu người họat động ở lảnh vực thủy  sản,  đã có 670 000 người lao động ở lảnh vực nuôi trồng  tại 714 xã ,  xuyên qua 28 tỉnh và Thành Phố có bờ biển. Thập niên  2001- 2010, bộ Lao động ước lượng là  ngành nuôi trồng thủy sản sẽ đào tạo được 64- 78 tiến sĩ , 240 – 308 thạc sĩ và 4300 – 4150 cử nhân tại các Viện và Trường đại học nước nhà cùng 5700- 7000 lao động trung cấp và 57 000 – 70 000 cán bộ cấp thấp.   Khảo  cứu những kỷ thuật phát triễn cận đại – cập nhật những năm qua, đã thực hiện trên các ngành nuôi trồng biển và nước lợ-brackish water  có tầm kinh tế quan trọng  như tôm sú khổng lồ, cua bùn lầy, cá mú đen chấm nâu ( đỏ cam ? ) Epinephelus  coioides, cá cobia Rachycentrum  canadum , barramundi  hay cá chẻm biển- waigieu sea perch  Psammoperca waigiensis , cua bơi- swimming crab  Charybdis   affinis , tômsú xanh – green tiger prawn Panaeus semisulcatus  và sò hào- oyster Crassostrea sp.   Cùng những kỷ thuật sản xuất con giống tốt cho sò huyết- blood cockle Anadara  granosa và tôm sú  xanh,  các kỷ thuật  trưởng thành  giống đẻ – broodstock maturation techniques cho bào ngư  tai lừa – donkey ‘s ear abalone Haliotis  asinina. Các kỷ thuật sản xuất thức ăn  cho nuôi trồng đã được hòan thiện thêm, gồm thực phẩm cho nuôi cá da trơn, cá mú chấm  đỏ cam -orange spotted grouper Epinephelus coioides, cô bia, ôc busin ngà và cá rô phi – tilapia , cố sử dụng các vật liệu địa phuơng, trong nước, hầu  giảm giá thành và phí tổn sản xuất.  Khảo cứu căn bản đã đề cao nghiên cứu  cải thiện môi trường nuôi trồng, chẳng hạn như nuôi hải sâm – sea cucumber và tôm sú khổng lồ  trong ao đào, nuôi lẫn lộn  cá mú cọp E. fuscoguttatus với bào ngư tai lừa,  sò trai  hai vỏ xanh Perna viridis , rong biển  Kappaphycus alvarezii trong lồng thả ở biển  và dùng các rau câu – rong biển làm sàng lọc sinh học – biofilter cho việc nuôi tôm. Nhiều  phương pháp áp dụng phân tử sinh học -  biomolecular methods  cũng được áp dụng ở ngành nuôi trồng thủy sản,  tỉ như  RAPD (Random Amplified Pylymorphic DNA -  Đa dạng Phóng đại Ngẫu nhiên DNA )  và RFLP (  Restriction Fragment Length Polymorphism – Đa dạng  Hạn chế  Chiều dài Mảnh )  …
 
Biết qua một số lòai thủy sản nuôi trồng ở nước nhà

        ( cá Hô nước ngọt sông Tiền )
Ở vùng nước ngọt  là  cá tra P. hypopthalmus và các ba sa P. bocourti, nơi sản xuất chánh là vùng ĐBSCL.  Nhưng cũng còn  nhiều lọai cá khác rất phổ biến là  loại cá  chép( gáy ) bạc – silver carp Hypophthalmychthys molithrix, cá chép cỏ- grass carp Cteopharyngodon  idellus , cá chép thông thường- commun carp  Cyprinus   carpio ,  cá chép to đầu- bighead carp Arischthys nobilis,    và các lòai cá chép Ấn Độ chép catla  Catla catla ,  cá chẻm , cháy ( ? ) -rohu Labeo rohita   và  chép Mrigal Cirrhinus mrigala ( Theo Lê  BN , Lê NT – 2003- 2004  .  Gần đây  hơn là cá rô điêu hồng đơn tính -monoxex tilapia  Oreochromis niloticus, được du nhập nuôi trông vùng nội địa và vùng nước lợ . Thêm vào các lòai này,  có lẽ không nên quên  tôm càng xanh – giant river prawn  Macrobrachium rosenbergii , cá vược  leo – climbing perch Anabas testudineus  và cá vồ Inđônexia – indonesian snakehead– Channa micropeltes,  rất đượng ưa chuộng ở miền Nam Việt Nam.  Nuôi trồng biển  phổ thông nhất là nuôi các lòai tôm hùm – lobster Panulirus spp. , các lòai cá mú Epinephelus spp.  và rau câu, rong biển  – seaweed Gracillaria verrucosa , chủ trì  ở vùng bờ biển miền Trung . Trong khi đó tôm  sú Panaeus monodon, cua bùn lầy  – mud crab Scylla spp.    Sò- nghêu  hai  mảnh – bivalves Meretrix spp.và Anadara spp.  là  những lòai cao năng sản xuất nhiều ở các vùng nước lợ Miền Nam Việt Nam
Một số lòai nuôi trồng khác đang  được khảo cứu và phát triễn có tiềm năng tốt đẹp là  cobia  Rachycentron canadum,  bào ngư  Haliothis spp., ốc busin  ngà lốm đốm – maculated ivory whelk Babylonia areolata, sò ngọc trai -silverlip  pearl oyster Pictada spp., tôm thẻ chân trắng – whiteleg shrimp Panaeus vannamei , cá chẻm( vược )  lớn biển , cá nhông ? – giant sea perch, barramundi  Lates calcarifer …. ..
 

 
 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 693735 visitors (2231847 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free