.
  Hà Nội P3
 
28/8/2014



Phần 3

Sơ lược về Chùa Hà Nội

      Chùa Láng, tên chữ là Chiêu Thiền Tự, ở Yên Lãng tức là làng Láng , nay thuộc phường Láng Thượng, quận Đống Đa. Chùa làm trên một khu đất rộng cây cối um tùm,  xưa được xem là cảnh chùa bật nhất của Thăng Long , nay là một di tích văn hóa, lịch sử, thắng cảnh  đẹp và u nhã nhất Hà Nội .  Chùa lập từ  thế kỷ thứ 12, thờ Từ Đạo Hạnh . Tương truyền, Từ Đạo Hạnh tu ở đây, đầu thai làm  con trai  Sùng Hiền Hầu , em  vua Lý Nhân Tông .Theo tục cỗ 12 năm, chùa  mở một  hội lớn  một lần.  Hội Láng ca dao ghi lại,  là một diễn xướng tổng hợp văn nghệ thể thao ( đánh đu , đánh vật …) của cả một vùng quê nằm hai bên bờ   sông  Tô một thời xưa. Trải qua nhiều thời đại, Chùa Láng được trùng tu nhiều lần. Hình dáng còn lại ngày nay được tạo dựng năm 1666, tu sửa lại thế kỷ thứ19.  Bố cục mặt bằng đối xứng theo một đường trục  dọc từ cửa Tam Triều  (  dẫn vào cõi Phật )  đến nhà Tổ phía sau. Tầng tầng lớp lớp  kiến trúc  chức năng khác nhau  tổ hợp với sân, vườn, cây xanh, mặt nước tạo nên  không gian hài hòa, sâu thẳm, tĩnh mịch và cổ kính. Nhà Bảo Cái  đặt ở vị trí trung tâm của Chùa Láng,  là công trình  giá trị nghệ thuật nổi bật nhất . Mái nhà Bảo Cái  lợp kiểu mái chồng, hai tầng gồm 16 mái mềm mại thanh nhã. Hai bên bậc thềm dẫn lên  nhà tiền đường,   có đôi rồng đá  uốn khúc y uyễn chuyễn độc đáo . Trên tấm bia đá  lập năm 1656,  có chạm trỗ 2 tiên nữ, đôi cánh như đang dướn bay lên trời  xanh …

     Chùa Liên Phái năm ở ngõ Chùa Liên, giữa phố Bạch Mai, đi hết ngõ là tới cổng chùa.    Hai bên cổng là hai hồ rộng . Ngay ở cổng chùa  là ngôi tháp Diệu Quang 10 tầng, hình lục lăng.  Điều  giúp  cho chùa Liên Phái  được Bộ Văn Hóa xếp hạng   di tích lịch sử giá trị,   chính là  khu vườn Tháp ở sau chùa.  Tại đó, trên một  gò đất cao  có 9 ngôi tháp  xây dựng thành 3 hàng: hàng thứ nhất có 2 ngôi , hàng giữa có 5 ngôi và hàng sau 2  ngôi.  Ngôi tháp Cứu Sinh hàng giữa chóan phần cao nhất xây bằng đá , là nơi táng  hài cốt vị sư tổ thứ nhất  sáng lập ra  ngôi chùa : phò mã Trịnh  Thập,  cháu nội của  chúa Trịnh Căn  trị vì 1682 - 1709     Trịnh Thập  biến phủ đệ thành chùa  gọi là Liên Tông.  Chùa xây năm 1726 . Đến thế kỷ  19 mới đổi là Liên Phái.    

   Chùa Mía , tên chữ là Sùng Nghiêm tự ỏ làng Mía  nay  thuộc xã Đường Lâm, huyện Ba Vì, Hà Nội.  Chùa được xây  năm 1632   do bà Nguyễn thị Rong, con gái làng, vợ chúa Trịnh Tráng,  hưng công.  Chùa năm trên đồi đá ong, chia ra 3 khu. Ở cả 3 khu, nơi nào có gỗ là được chạm trỗ.  Gác chuông theo kiểu chồng diêm, hai tầng 8 mái, các góc mái đều  gắn đao triện. Chùa có tới 287 pho tượng, một nữa làm bằng gỗ , một nữa làm bằng đất luyện , tất cả  đều son thếp .  Nhiều pho có thể xem như là tuyệt tác nghệ thuật tạo hình của nước ta.  Đó là 8 pho Bát bộ, Kim Cương, pho Tuyết Sơn và pho Quan Âm tống tử ( còn được gọi là tượng bà Thị Kính , vẽ mặt hơi buồn nhưng rất hiền, ẳm một đứa  bé kháu khỉnh .   

   Chùa Ngũ Xã, có  tên là Thần Quang tự, năm ở  bán đảo bên hồ Trúc Bạch, từ xưa có  nghề đúc đồng nổi tiếng;  xây từ thế kỷ thứ 18, thờ  nhà sư Nguyễn Minh Không tục truyền là tổ nghề đúc đồng. Ở đây có một pho tượng Di Đà mới đúc năm 1952 , nhưng là pho tượng  đồng to nhất các chùa đền miền Bắc nước ta . Đắp  cốt khởi công ngày Phật đản năm 1949 , đến ngày Phật đản năm 1952  thì khánh thành. Tượng cao 3.95 m, khỏang cách 2 đầu gối là 4 3.6 m, tai dài tới 0.70m . Chu vi tượng đo tới 11.6m.  Trọng lượng tòan pho tượng là 10 tấn đồng .

    Chùa Quán Sứ nằm giữa  phố cùng tên, là đất  thôn An Tập  xưa. Tại đây, thời đầu nhà Lê,  vào thế kỷ thứ 15, có lập một khu nhà gọi là Quán Sứ tiếp đón sứ thần các nước Lão Qua , Chiêm Thành. Vì họ đều theo đạo Phật ,nên  một ngôi chùa được dựng ở  cạnh Quán Sứ  cho các sứ thần tụng niệm cúng bái. Trải bao thay đổi,  tới năm 1934, hội Phật Giáo Bắc Kỳ      lấy chùa này làm hội quán. Năm 1942, chùa được xây lại theo  qui mô kiến trúc  và trang trí nội thất như ngày nay .

    Chùa Trấn Quốc , có thể là ngôi chùa vào lọai cổ nhất nước ,vì tương truyền là là có từ đời Lý Nam Đế  ( 544- 548 ). Thuở ấy, chùa  được dựng sát  bờ sông Cái,  có tên là chùa Khai Quốc ( mở nước ).  Vua Lê Thái Tông ( 1440 -1442 ) đổi tên là Chùa An Quốc . Đời Lê Kính Tông ( 1600 - 1618 )  bãi sông  lở,  dân dời  chùa vào hòn đảo Cá Vàng giữa Hồ Tây ( tức địa điểm  hiện nay ) , nơi các vua nhà Lý đã dựng cung Thúy Hoa và đời Trần đã dựng điện Hàm Nguyên. Đời vua Lê  HyTông( 1680 - 1705 )  đổi gọi là chùa Trấn Quốc . Năm 1842  , vua Thiệu Trị tới thăm,  chùa đổi gọi là  Trấn Bắc, nhưng dân gian vẫn quen gọi là Trấn Quốc.  Khỏang thế kỷ thứ 17 ( hay 17 ) đắp đê Cổ Ngư, nên mới có đường nối đê  với đảo Cá Vàng   Chùa hiện  còn giữ được lối kiên trúc độc đáo khác với nhiều chùa , phía trước là nhà bái đường, rồi đến nhà Tam Bảo  phía sau mới là  hai dãy hành lang Thập Điện và gác chuông . Trong chùa có một số tượng đẹp. Đáng chú ý nhất là Pho tượng Thích Ca nhập Niết Bàn  bàng gỗ thếp vàng.   Chùa cũng có nhiều  bia . Cỏ nhất là  tấm bia dựng năm 1639, Trạng nguyên  Nguyên Xuân Chính sọan, nội dung gây lại lịch sử xây dựng chùa. Nằm giữa hồ,  bốn bề mặt nước mênh mông, chỉ có một con đường độc nhất, nối từ đường Thanh Niên dẫn vào chùa Trấn Quốc.

   Chùa Bà Đá chính tên là Linh Quang tự, phố Nhà  Thờ, Hà Nộ . Linh Quang là ánh sáng thiêng liêng phát ra  từ đá.  Đời Lê Thánh Tông ( 1460-1497 )  ở làng Báo Thiên  tức khu vực quanh nhà thờ lớn, có người  đào được một pho tượng Phật Bà bằng đá, dựng một miếu con thờ ngay tại nơi đào được tượng.   Dân làng thấy thiêng làm thành ngôi chùa có tên là Chùa Bà Đá . Nhưng pho tượng này bị hỏa họan thời Pháp thuộc  thiêu hủy.  Đầu thế kỷ thứ 20,  trong chùa có một pho tượng Phật Thích Ca mới tạc, cũng bằng đá .  Chùa là “ chốn tổ”  của phái Lâm Tế , một trong 2 phái lớn Phật Giáo miền Bắc .

    Chùa Hòe Nhai chính tên là Hồng Phúc tự ở phố Hàng Than, Hà Nội . Đây là chùa cổ  tương truyền có từ đời Lý, trải qua nhiều lần  sửa  chửa lớn  các năm 1687, 1899  và  1952 .   Thời Pháp thuộc chùa bị thu nhỏ lại như ngày nay . Trong chùa có một số bia đá, cổ hơn cả  là bia dựng năm Chính Hòa 24 ( 1703 ). Ghi rõ vị trí  chùa ở phía Bắc  phường Hòe Nhai, tại Đông Bộ Đầu  tức Bến Đông . Giúp các nhà sử học ngày nay  xác định được  vị trí chiến thắng ngày 29 tháng giêng năm  1258, gọi là ChiếnThắng Đinh Bộ Đầu,  đuổi giặc Nguyên ( Mông Cỗ ), giải phóng kinh thành  ở vào gần chùa Hòe Nhai này .  Trong chùa có nhiều tượng , cổ nhất là tượng Củu Long ( ThÍch Ca sơ sionh ) và đặc sắc nhất là  tựong một vị Phật ngồi trên lưng một ông vua nằm phục xuống, có lẽ phỏng theo điển vua Đế Thiên Đế Thích tình nguyện làm giường cho Phật Thích Ca ngồi thuyết pháp. Chùa là “ chốn tổ” của phái “Tào Động”, một trong 2 phái lớn trước đây của Phật giáo miền Bắc .

    …

     Sơ lược về Đền Hà Nội

 

Đền Quán Thánh như chữ tạc trên nóc cổnh thì đây là “ Chấn Vũ Quán , tên mới có từ năm 1840 , trước đó là “ Trấn  Vũ Quán” . Dân gian gọi nôm  na là đền Quán Thánh.  Quán là nơi thờ tự của Đạo giáo ,  cũng như Chùa là nơi thờ tự của Phật giáo  . Thánh Trấn Vũ là một hình tượng  kết hợp nhân vật  thần Thọai Việt Nam  ( như ông Thánh đã giúp An Dương vương  trừ ma qủy  khi xây thành Cỗ Loa)  và nhân vật thần thọai Trung Quốc  ( Thánh  coi giữ phương Bắc ).  T+ơng truyền đền  có từ đời Lý Thái Tổ ( 1010 -1028 ), nhưng diện mạo hiện nay có từ  lần sửa chửa  năm 1893. Trong đền có pho tượng Trấn Vũ bằng đồng đen, đúc năm 1677, cao 3.96m, nặng 4 tấn.  Tượnh hình dáng một người ngồi, y phục nai nịt gọn gàng, nhưng tóc lại bỏ xõa, chân không giày dép, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm. Thân gươm có rắn quấn  và chống lên lưng rùa.  Đó là hình dáng một đạo sĩ. Tượng Trấn Vũ là công trình nghệ thuật điêu khắc độc  đáo, đánh dấu  kỷ thuật  đúc đồng, tài nghệ tạc tượng của dân Việt Nam  cách đây 300 năm.   

      Đền Voi Phục trên đất làng Thủ Lệ xưa,  ở cạnh đường đi Cầu Giấy, bên vườn thú Thủ Lệ  quận Ba Đình.  Đền là một trong “Thăng Long tứ trấn”, xây từ đời Lý Thái Tông (1028- 1054 ), bên một hồ rộng . Đền thờ Linh Lang, có thể là hòang tử Hòang Chân , con vua Lý Tháoi Tông  do một bà phi người làng Bồng Lai ( Đan Phượng ) sinh ra ở  Trại Chợ, Thủ Lệ.  Hòang tử đã tham gia trận đánh quân Tống xâm lược trên phòng tuyến Sông Cầu  và hy sinh tại đó. Một huyền thọai khác kể rằng Cảo Nương, một cung phi vua Lý  ra tắm ở Hồ Tây bị rồng cuốn lấy người,  về có mang sinh ra hòang tử trên mình có 28 vét vây rồng và 7 hàng chấm sáng long lanh như ngọc trên ngực. Lớn lên Linh Lang cầm quân, đánh thắng quân Tống . Vua muốn nhường ngôi cho, nhưng Linh Lang chối từ,  về ở Trại Chợ, sau bị bệnh từ trần hóa thành con rồng đen cuốn quanh phiến đá,  rồi xuống Hồ Tây biến mất. Trong đền có 2 pho tượng đồng và hòn đá to có vết lõm. Cửa đền đắp hai con voi qùy  nên quen gọi là đền Voi Phục .  Đường vào có những cây muỗm ( một đại mộc cao 30m , họ Xòai Anacardiaceae , tông Mangifera  ?), cây si lâu đời, sau đền có những bụi nứa.  Ngày 21 tháng 12 năm 1873 , nghĩa quân Việt,  đã phục kích ở  gần đền Cầu Giấy này giết chết  chủ tướng quân xâm lược Pháp là Francis Garnier.        

     Đền  ( Thánh ) Gióng ở xã Phù Đổng , huyện Gia Lâm trên bờ Bắc sông Đuống , tên nôm nà là Làng Dóng , quê hương người anh hùng truyền thuyết  Thátnh Dóng - Phù Đổng Thiên Vương  lên 3 tuổi  đã cưỡi ngựa sắt , đánh tan giặc Ân xâm lược, thời vua  Hùng thứ 6. Đền Dóng to và đẹp , tương truyền được vua Lý Thái Tổ cho dựng trên nền nhà cũ của ông Dóng , khi nhà vua dời đô ra Thăng Long .  Đền còn giữ được  nhiều bộ phận kiến trúc của thời Lê Trung Hưng ( thế kỷ thứ 17).  Tam Quan được xây sau vào cuối thế kỷ thứ 19.  Tượng Thánh Dóng đặt trong chính điện , ngồi giũa 2 dãy tượng 6 quan văn - võ , 2 người hầu cận đứng, 2 phổng  quỳ và 4 viên lính hầu.  Hiện vật đáng chú ý ở đền Thượng này là đôi rồng đá làm bậc thềm ,đôi sư tử đá tạc từ đời Lê Dụ Tông ( 1705 ) , bia năm 1660, đôi chóe sứ tương  truyền là của bà Chúa Chè Đặng Thị Huệ cung tiến cuối thế kỷ thứ 18.  Đền Mẩu , còn có tên là đền Hạ ,  tên chữ là Khánh Quang Điện , ở ngòai đê ,  là nơi thờ bà meẹ Thánh Dóng , xây năm  1693. Miếu Ban cũng thờ mẹThánh Dóng, là nơi người anh hùng chào đời.. Cạnh đền Thưiợng còn có ngôi chùa Kiến Sơ , tương truyền có nhà sư Võ Ngôn Thông đời Đường đã sang tu ở đây và lập ra phái Thiền Tông Phật gíao nước ta .  Đền Sóc ở thôn Xuân Tảo , xã Xuân Đỉnh , huyện  Từ Liêm  là nơi ông Dóng  ruỗi ngựa qua sông, xuống Hồ Tây tắm mát  giở cơm nắm ra ăn,   rồi  phi ngựa lên núi Sóc  bay về Trời , để quên lại chiếc roi sắt . Đền Sóc Sơn  ở trên núi Sóc, còn có tên là núi Phú Mã , núi Vệ Linh , ở xã Phù Linh ,huyện Sóc Sơn.  Tại đây  có hai Đền thờ  Phù Đổng Thiên Vương.  Đền Thượng nay không còn . Đền Hạ xây  vào thế kỷ thứ  19. Năm  1898,  đền Hạ bị cháy, chỉ còn đôi ngựa gỗ là di tích cỗ.   Hội đền Sóc Sơn mở vào ngày mồng 6 tháng giêng  âm lịch.

      Những đền  khác là  Đền Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh Hà Nội và Đền  Hát Môn  ở xã cùng tên huyện  Phúc Thọ, Hà Nội, Đền Đồng Nhân ở ngay nội thành, quận Hai Bà Trưng , cả ba thờ tưởng niệm Hai Bà Trưng.   Đền Ngọc Hồi ở xã Ngọc Hồi, huyện Thanh Trì, Hà Nội, kỷ niệm chiến thắng  Đống Đa( Ngọc Hồi - Đầm Mực ) nơi hàng vạn quân Thanh và các đại tướng Thanh, bị vua Quang Trung, nhà Nguyễn Tây Sơn, tiêu diệt.


 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 630123 visitors (2115724 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free