Chợ nổi Cái Răng
Năm 1739 , nghĩa là cách đây gần 275 năm, Cần Thơ đã được vẽ ra trên bản đồ nước nhà, dưới tên là Trấn Giang. Trong cuộc Nam Tiến của cha ông, Cần Thơ xuất hiện sau cả hai vùng; vùng phía trên là Đồng Nai – Sài Gòn và vùng phía dưới là Hà Tiên- Rạch Gíá- Cà Mau … của biển Tây và Biển Đông nước nhà ( Biển Tây có trên 100 đảo lớn nhỏ: Phú Quốc lớn nhất diện tích 568 km2, lớn thứ nhì sau Phú Quốc làHòn Rái – Lại Sơn -Sơn Rái diện tích hơn 12 km2, Hòn Tre diện tích còn nhỏ hơn chỉ trên 4 km2 đôi chút, nhưng lại là huyện lỵ của huyện Kiên Hải, Hòn Nghệ, nhóm đảo Thổ Châu, nhóm Nam Du, nhóm Hải Tặc, Hòn Chuối, Hòn Bương- Hòn Đá Bạc v.v…) .
* * *
Đất Cần Thơ , nam thanh nữ tú
Đất Rạch Giá, vượn hú chim kêu
Quản chi nắng sớm mưa chiều,
Lên doi xuống vịnh, cũng chèo theo em.
Đất Sài Gòn anh ở,
Xóm Cần Thơ em trở lụn về .
Bấy lâu sông cận biển kề,
Phân chia mai trúc, dầm dề giọt châu.
Cần Thơ là tỉnh ,Cao Lảnh là quê,
Anh đi Lục Tỉnh bốn bề,
Mãi lo buôn bán không về thắm em.
Cần Thơ gạo trắng nước trong
Ai về xứ Bạc thong dong cuộc đời.
( hay Ai đi tới đó lòng không muốn về .)
(Ca dao Miền Nam, Phan Tấn Tài sưu tầm )
Vị trí
Ngày mồng một tháng giêng năm 2004, tỉnh Cần Thơ được chia ra thành tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ, một trong những thành phố Trung ương quản trị là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẳng và Sài Gòn – TP HCM. TP Cần Thơ nằm trong vĩ tuyến 10002 Bắc và kinh tuyến 105047 Đông. Độ cao đất Cần Thơ gần như bằng mực nước mặt biển, là 0m . Diện tích 1398 km2 ( 536,5 dặm Anh vuông ), định lại năm 2012 là 1389. 60 km2 . Dân số năm 2009 là 1 188 435 người, năm 2010 là 1200 000 người; như vậy đầu năm 2013 có thể là 1225 000 người. Nhắc lại vào năm 2002, dân số Sài Gòn đã gần 5.5 triệu, Hà Nội trước khi mở rộng gần 3 triệu, Hải Phòng trên 1.7 triệu và Đà Nẳng chỉ mới đến trên 720 000 người. Vì dân số trên 1 triệu, Cần Thơ đã thành thị trấn hạng I theo cách xếp hạng năm 2009 các thị trấn - đô thị Việt Nam. Cần Thơ nằm ngay trung tâm Châu thổ Sông Cửu Long ( ĐBSCL ) cách TP HCM 170 km trên quốc lộ 1A về phía Đông Bắc và cách các đô thị lớn ĐBSCL từ 60 đến 120 km. Đi xe búyt lớn từ TP Hô Chí Minh đến Cần Thơ chỉ cần từ 3-đến 4 giờ từ Bến Xe Miền Tây, đón khách suốt ngày đêm , mỗi chuyến cách nhau 1- 2 giờ và có xe nhỏ chở từ bến xe đường Lê Hồng Phong đến bến xe Miền Tây. Từ nơi khác trong TP HCM thì có thể đi tắc xi đến đường Lê Hồng Phong thuộc quận 10. Các hảng xe buýt nhỏ chỉ có một chuyến xe vào buổi sáng. Ba hảng lớn là hảng “Thanh Bưởi” (nhãn hiệu màu trắng có hoa) hảng chạy mau nhất vì chỉ ngưng lại 10 phút giữa đường đến Cần Thơ; hảng “Mai Lĩnh” ( tòan màu xanh ) cần đến 4 giờ ; hảng “Phương Trang” ( tòan màu đỏ ) có nhiều chuyến nhất mỗi ngày, cũng mất 4 giờ. Từ Sóc Trăng đến Cần Thơ cần 1. 5 giờ xe ô tô , từ Châu Đốc cần 3 giờ và từ Rạch Giá cần 3.5 giờ, từ Cà Mau cần 6 giờ và cần 1. 5 giờ từ Long Xuyên. Đông Cần Thơ giáp các tỉnh Đồng Tháp và Vĩnh Long; Tây giáp tỉnh Kiên Giang; Bắc giáp tỉnh An Giang và Nam giáp tỉnh Hậu Giang.Về hành chánh, TP Cần Thơ chia 9 quận . 5 quận lớn là Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, Thốt Nốt và 4 quận nhỏ ( huyện ? ) là Phong Điền, Cờ Đỏ, Thới Lai, Vĩnh Thạnh, với 5 thị trấn , 44 phường và 36 xã .
Cầu Cần Thơ (
Suôi dòng lịch sử
Tên Cần Thơ hình như khởi nguyên từ thời Chúa Nguyễn Phúc Ánh ( vua Gia Long sau khi thống nhất đất nước) bôn ba chạy trốn quân Tây Sơn lùng bắt gắt gao khắp các tỉnh , hải đảo Gia Định – Hà Tiên. Tương truyền một hôm thuyền Chúa lạc vào lảnh thổ thị trấn Trấn Giang, giữa đêm nghe tiếng ngâm, tiếng ca và tiếng sáo thổi, Chúa khen ngợi phong cảnh yêu kiều nơi này và gọi tên cho sông chảy ngang đó là” Cầm Thi Giang” ( sông thơ ngâm và tiếng cầm ca ) Tên Cầm Thi lan tràn và sau đó một số dân gian đọc trại ra thành Cần Thơ ? . Cần Thơ chưa bao giờ được gọi chánh thức hay ghi chép là “ Tây Đô “ cả . Nhưng nhờ vị trí, thương mãi, kỷ thuật, và ngay cả quân sự… Cần Thơ được xem như là một trung tâm chủ yếu của miền Tây, nên có khi được gọi là Tây Đô, thủ đô, thủ phủ Miền Tây Nam Kỳ .
Năm 1739 , nghĩa là cách đây gần 275 năm, Cần Thơ đã được vẽ ra trên bản đồ nước nhà, dưới tên là Trấn Giang. Trong cuộc Nam Tiến của cha ông, Cần Thơ xuất hiện sau cả hai vùng; vùng phía trên là Đồng Nai – Sài Gòn và vùng phía dưới là Hà Tiên- Rạch Gíá- Cà Mau … của biển Tây và Biển Đông nước nhà ( Biển Tây có trên 100 đảo lớn nhỏ: Phú Quốc lớn nhất diện tích 568 km2, lớn thứ nhì sau Phú Quốc là Hòn Rái – Lại Sơn -Sơn Ráidiện tích hơn 12 km2, Hòn Tre diện tích còn nhỏ hơn chỉ trên 4 km2 đôi chút, nhưng lại là huyện lỵ của huyện Kiên Hải, Hòn Nghệ, nhóm đảo Thổ Châu, nhóm Nam Du, nhóm Hải Tặc, Hòn Chuối, Hòn Bương- Hòn Đá Bạc v.v…) . Cuối thế kỷ thứ 17, Mạc Cửu nguồn gốc Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông bên Tàu, không chịu qui phục nhà Thanh, năm 1671 đem tùy tùng và bà con thân quyến theo đường biển xuống Nam, sau khi qua các nước Phi Luật Tân, Nam Dương.., trước đến Chân Lạp (khỏang 1680 ) và sau đó đến làm ăn ở Mang Khảm, mở mang vùng Hà Tiên bây giờ. Theo Trịnh Hòai Đức ở Gia Định Thành Thông Chí, thì lúc đó vùng đất Hà Tiên đã có lưu dân người Việt ( tội nhân trốn tránh chánh quyền Đàng Trong hay dân phiêu bạt giang hồ từ Miền Trung ? )sinh sống ở những vị trí “ sườn gò khởi phục, cây tốt, suối trong” chung với người Khmer – Miên và sau đó luôn cả người Hoa nữa( Nguyễn Thanh Liêm – 2006 ). Mùa thu năm 1708, Mạc Cửu theo lời khuyên của mưu sĩ họ Tô, cho thuộc hạ là Trương Cầu và Lý Xá mang ngọc lụa đến Thuận Hóa , dâng biểu xin dâng đất Hà Tiên ( trên danh nghĩa còn là đất Thủy Chân Lạp ? ) cho chúa Nguyễn và xin làm Hà Tiên Trưởng. Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu ban ấn tín, phong cho Mạc Cửu làm Tổng Trấn Hà Tiên gồm các ấp Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá đến Cà Mau. Năm 1732, tất cả đất miền Nam được thiết lập thành 3 dinh ( dinh Trấn Biên hay Biên Hòa, dinh Phiên Trấn hay Gia Định và Dinh Trấn hay Long Hồ ) và trấn Hà Tiên. Mạc Cửu mất năm 1735 và năm sau Chúa Nguyễn sắc phong cho con trai Mạc Cửu là Mạc Thiên Tích ( hay Tứ ) làm Đô Đốc trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tích phát triễn Hà Tiên mạnh hơn nữa, mở thêm các huyện- đạo ( ? ) ( theo Gia Định Thành Thông Chí ) là Kiên Giang, Long Xuyên , Trấn Di ( Bạc Liêu ) vàTrấn Giang ( Cần Thơ ), sáp nhập Kiên Giang và Long Xuyên ( lúc đó là Cà Mau ) vào trấn Hà Tiên.
Đánh giá được tầm quan trọng của Trấn Giang như thể hậu cần của Hà Tiên và Rạch Giá trong công cuộc phòng vệ chống xâm lấn của các lực lượng đối nghịch là Xiêm ( Tiêm ) La và Chân Lạp, Mạc Thiên Tích xây dựng đồn lũy, mở mang kinh tế, thương mãi, văn hóa Trấn Giang. Tuần vũ Quảng Ngãi Nguyễn Cư Trinh được chúa Vỏ Nguyễn Phúc Khóat cử vào Nam năm 1753, hòan tòan ủng hộ chánh sách mở mang của Mạc Thiên Tích. Kể từ đó, Trấn Giang thịnh vượng mãi lên và ngòai việc trở thành một “dịch vụ “ chống giữ miền Hậu Giang, còn là nơi mọi di dân khắp nước đến đây định cư sinh sống làm ăn, lập nghiệp nhờ đường sông giao lưu dễ dàng và đất đai bờ sông phía Tây phì nhiêu, còn hoang vu nhiều. Nhờ vị trí đặc biệt này, Trấn Giang vẫn phát triễn trong thời gian hổn lọan tranh chấp của hai nhà Nguyễn Phước ( Phúc ) và Nguyễn Tây Sơn từ năm 1771 đến năm 1787. Sau khi chiếm Phú Xuân năm 1774 , tháng 3 năm 1777, quân Tây Sơn tấn công Gia Định. Tháng 8 năm 1777, quân Tây Sơn tràn xuống miền Tây và Trấn Giang. Tháng giêng 1785 , Nguyễn Huệ đánh tan 20 000 quân Xiêm và 300 chiến thuyền Xiêm ở trận Rạch Gầm – Xóai Mút ( thuộc tỉnh Tiền Giang ngày nay). Năm 1787, quân Tây Sơn rút khỏi miền Tây và Nguyễn Ánh thu phục lại đất Gia Định, kể luôn cả Trấn Giang.
Cái Răng , Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền,
Anhcóthương em thì cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo , láng giềng cười chê.
Cái Răng , Ba Láng , Vàm Xáng, Xà No ,
Anh có thương em , xin sắm một con đò,
Để em qua lại mua cò ( tem thư ) gửi thơ.
( Ca Dao miền Nam, Phan Tấn Tài trích dẫn )
Năm 1803 , vua Gia Long điều chỉnh lại bản đồ miền Tây sông Hậu, đổi tên dinh Long Hồ thành dinh Hòang Trấn , rồi thành Vĩnh Trấn. Năm 1808, Trấn Giang thuộc trấn Vĩnh Thanh. Năm 1813, vua lấy một phần bờ tay phải sông Hậu , gồm Trấn Giang – Cần Thơ quá khứ thăng Châu Định Viễn thành Phủ Định Viễn, thuộc trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832 , vua Minh Mạng đổi tên Trấn thành Tỉnh và lập ra sáu tỉnh Nam Kỳ , nên mới có tên là Lục Tỉnh. Vua Minh Mạng cũng tách Vĩnh Định ( tên của Cần Thơ trong quá khứ ) khỏi phủ Định Viễn ( tỉnh Vĩnh Long ) và đặt Cần Thơ trực thuộc Tân Thành, tỉnh An Giang. Năm 1839 vua Minh Mạng đổi tên huyện Vĩnh Định thành huyện Phong Phú, đặc trực thuộc Tịnh Biên , tỉnh An Giang. Làng Tân An là huyện lỵ huyện Phong Phú. Kế tiếp, huyện Phong Phú phồn thịnh khác hẳn các huyện khác các tỉnh miềnTây. Các xã Tân An và Thới Bình cũng phát triễn , nới rộng . Dân gian đến định cư sau đó ở Bình Thủy, vì mạng lưới sông ngòi thuận tiện. Cả ba đều thanh bản địa Cần Thơ . Khi có đông người, viễn cảnh trở nên văn minh, thơ mộng , nên đời sau có tên là Long Tuyền. Ở Trấn Giang , sông là đường giao thông chánh . Các làng xã được thiết lập và trải dài dọc theo sông ,mương ( sau đó đào rộng sâu hơn thành kinh ). Các chợ cũng được xây dựng lên. Nhiều đọan sông, gần các cửa sông, các nơi tiếp giáp con nước, dần dần trở thành nơi hội họp chợ, buôn bán, trao đổi văn hóa của tòan vùng. Cho nên các chợ xưa cũ và các tiểu thị trấn xa xôi và cách xa sông hơn chỉ thành lập khi đường xá được xây cất và xe hơi trở thành phương tiện chuyên chở phổ thông. Những đặc điểm này có thể đã xuất hiện ở Bình Thủy – Cần Thơ vào cuối thế kỷ thứ 18, phối hợp cùng các nơi khác nằm phía giữa và phía dưới sông Hậu . Đầu thế kỷ thứ 19, theo Gia Định thành Thông Chí, vài trung tâm thương mãi đã được mô tả tỉ như bờ phía Tây Trấn Giang trên sông Cần Thơ, phụ huyện Bình Chánh trên sông Trà Ôn, Trường Tàu Ba Thắc trên phía dưới sông Hậu, cũng to lớn như các trung tâm đã có trên sông Tiền: Sa Đéc và Long Hồ chẳng hạn. Đây có lẽ là đặc điểm nổi bật nhất cho mệnh danh là Một Văn minh Miệt Sông, Sông Rạch – Waterway Civilization và “ Văn Minh Thương Hồ” của các Chợ Nổi- Floating Markets , ở các ngã ba , ngã tư … sông : Trà Ôn, Phong Điền, rồi Cái Răng. Tiếp nối “Văn minh Miệt Vuờn” , khu vực Đồng Nai – Tiền Giang. Phương tiện di chuyễn , giao thông quan trong nhất là ghe, xuồng. Một số nhà trong làng xã đều có sắm xuồng ba lá, ghe tam bản, ghe lườn … Đường sông, đường biển là mạch máu của người dân sông Hậu thời đó. làng xóm mọc lên từng cụm dọc theo bờ sông, con kinh con rạch, nối tiếp nhau, không có hàng rào nào ngăn cách như các lũy tre xanh đồng bằng sông Hồng miền Bắc. Ranh giới giữa hai làng chỉ có người địa phương quen thuộc mới phân biệt nổi. Cũng như ở Miệt Vườn, đường đi trong làng phải qua nhiều cây cầu ngòai cầu dừa, cầu cau, cầu tre qua mương vườn thì còn có nhiều cầu đúc, cầu ván, cầu khỉ bắt qua các con rạch lớn hơn. Mỗi làng đều có cái chợ nằm bên bờ sông họp buôn bán hàng ngày. Ở mỗi huyện – quận đều có chợ quận. Những nơi ghe thương hồ dừng lại nghỉ đêm nơi những chổ gọi là vàm, đều có các cô gái bán vàm , xuồng bán đồ ăn ( chè, cháo, bánh ú, bánh tét, bánh dừa, khoai lang , xôi , bắp … ( Nguyễn Thanh Liêm , 2005). Đây cũng là lúc Cần Thơ tiến sâu vào hòa bình, tăng thêm hệ thống cai trị và hành chánh, bổ sung lý tưởng Khổng học và các thể chế giáo dục khác, đạo đức cũng như qui tắc nghi lễ.
Cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20 là thời kỳ thay đổi dị thường cho nhiều địa danh Lục Tỉnh . Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông theo hòa ước với triều đình Huế năm 1962 . Các ngày 20, 22 và 24 tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp xé hòa ước 1862 , chiếm luôn 3 tỉnh phía Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên . Ngày mồng một tháng giêng 1868 , thống đốc Nam Kỳ là Bonard lấy quyết định đặt hai huyện hong Phú ( Trấn Giang – Cần Thơ) và Bảỉ Sào – Xàu ( Sóc Trăng ) thành một đơn vị hành chánh duy nhất gọi là quận – tiếng Pháp là arrondissement , đặt tòa bố Sa Đéc. Ngày 30 tháng tư năm 1872 , cũng thống đốc Nam Kỳ ra nghị định đặt Phong Phú và Bạc Trăng một vùng thuộc thị trấn Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long thành một quận hành chánh duy nhất, có tòa bố ở Trà Ôn. Năm sau tòa bố dời về Cái Răng ( Cần Thơ ). Ngày 23 tháng hai năm 1876, tướng Pháp quản trị Sài Gòn lại ra nghi định lấy huyện Phong Phú và một phần các huyện An Xuyên và Tân Thành lập ra quận – arrondissement Cần Thơ, có trung tâm là Cần Thơ, nguyên là xã Tân An huyện Phong Phú. Năm 1889, Pháp thuộc địa đổi arrondissement thành tỉnh và huyện thành quận. Từ năm 1876 đến năm 1954, lảnh thổ Cần Thơ Pháp thuộc không thay đổi.
Tuy nhiên trong thời kỳ Kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lăng, chế độ Việt Minh điều chỉnh hành chánh một vài nơi. Tỉnh Cần Thơ thêm huyện Thốt Nốt ( thuộc tỉnh Long Xuyên) Long Mỹ, Gò Quao huyện Giồng Riềng và thị trấn Rạch Giá. Tháng 11 năm 1954, Long Mỹ, các huyện Gò Quao , Giồng Riềng, thị trấn Rạch Giá được trả về cho tỉnh Rạch Giá: huyện Kế Sách trả về cho tỉnh Sóc Trăng, huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Long Xuyên. Cần Thơ nhận thêm hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè như trước. Sau hiệp định Giơ Neo năm 1954, năm 1956, chánh quyền Đệ Nhất Cọng Hòa đổi tên Cần Thơ thành Phong Dinh. Năm 1961, dùng một phần đất Long Mỹ và Vị Thanh lập tỉnh Chương Thiện. Tiếp theo, tên các quận- huyện, phụ quận, làng xã hai tỉnh Phong Dinh và Chương Thiện cũng đều được thay đổi. Năm 1957, quận Long Mỹ trả về cho tỉnh Cần Thơ và quận Kế Sách thuộc tỉnh Sóc Trăng cũng trả về cho tỉnh Cần Thơ năm 1958. Năm 1963, quận Thốt Nốt – tỉnh Long Xuyên lại được nhập vào tỉnh Cần Thơ. Xã Vị Thanh, năm 1966, cũng được sáp nhập vào Cần Thơ. Năm 1969, thị trấn Cần Thơ tách ra khỏi tỉnh Cần Thơ và đặt thuộc quyền Đại biểu Miền Tây Nam Phần quản trị. Năm 1971, thị trấn được trả về tỉnh Cần Thơ. Sau 1975, ngày 24 tháng ba năm 1976, chánh quyền nhập tỉnh Cần Thơ, Sóc Trăng và thị trấn Cần Thơ thành một tỉnh mới tên là Hậu Giang , thị xã là thị trấn Cần Thơ. Tháng 11 năm 1991, Quốc hội Khóa 8 ra nghị định chia tỉnh Hậu Giang thành 2 tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng . Tháng giêng 2004 , Cần Thơ chia ra thành tỉnh Hậu Giang và thành phố Cần Thơ, trục thuộc Trung Ương từ đó.
Địa hình , đất đai , khí hậu, thủy văn TP Cần Thơ
Cần Thơ nằm ở các đồng bằng nữa phần ngập lụt, nghiêng dần từ Đông Bắc qua Tây Nam, gồm ba hình thức địa hình : các bờ đê thiên nhiên dọc theo sông Hà, tạo ra một dãi đất cao và ốc đảo dọc theo sông Hà ; các đồng bằng nữa ngập lụt – half –flooded plains thuộc tứ giác Long Xuyên bị ảnh hưởng lũ trực tiếp mỗi năm và đồng bằng châu thổ, phần lớn chịu ảnh hưởng thủy triều và vài ảnh hưởng tương tác của lũ cuối mùa lúa. Các quận Vĩnh Thạnh , Cờ Đỏ bị lũ lụt đe doa lớn nhất TP Cần Thơ Đất đai gồm 2 nhóm chánh:
- nhóm đất phù sa, chiếm đến 84% diện tích Cần Thơ phân phối dọc sông Hà và cách bờ sông từ 8- 12 km chia ra 5 lọai : phù sa ven sông, ( 1.9 % ) , phù sa chua gley hóa ( chừng 58% ), phù sa chua ( 15.3 %)và phù sa lốm đốm ( 4.9% ) phù sa gley ( 4.1%) . Các đất phù sa này thường cần tuới tiêu để làm hai hay ba vụ lúa hay hai vụ lúa , một vụ hoa màu khác, và chỉ được dùng một phần nhỏ lập vườn, trồng cây ăn trái. May mắn là các đất phù sa xa sông Hậu còn chịu ảnh hưởng thủy triều và lũ, nên nước ngọt có thể chảy vào ruộng vườn quanh năm, rất có giá trị cho phát triễn nông nghiệp .
- Nhóm đất phèn phù sa, chiếm 16% diện tích thiên nhiên tỉnh nhà gồm đất phèn tiềm tàng ( 2.5% ), đất phèn họat động(7.0% ) luôn cả đất phèn vùng lòng chảo ( 6.4 %) , hứng phèn vũng sâu từ vùng cao hơn kéo xuống tích tụ thành những “rốn phèn” dung dịch phèn càng ngày càng đậm đặc nên nhiều nơi phải bỏ hoang, chỉ nên trồng lại tràm , khuynh diệp đỏ hay các lòai cây trồng chịu được phèn.
Khí hậu Cần Thơ là khí hậu nhiệt đới có 2 mùa rỏ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô – mùa nắng từ tháng chạp đến tháng tư năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 270C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1635mm. Ẩm độ trung bình hàng năm là 83% .
Thủy văn nước trên mặt khá dồi dào, nằm ở những nơi cắt ngang nguồn nước và thủy triều. Dòng chảy muà nước lũ dâng khỏang 12 800 m3 một giây đồng hồ . Cần Thơ có nhiều hệ thống kinh quan trọng đưa nước sông Cần Thơ chảy về Biển Tây và bán đảo Cà Mau như các kinh Cái Sắn, Thốt Nốt , Ô Môn, Rạch Sỏi- Vàm Cống , Xà Nô , các kinh song song sông Cần Thơ ( trục Bốn Tổng – Một Ngàn) các các sông bị ảnh hưởng thiên nhiên của thủy triều ( sông Cái Răng, kinh từ Trà Nóc đến Cái Củi). Điều đáng lưu ý là những đập thủy điện hay tưới tiêu thượng nguồn sông Mê Kông , chỉ mới làm cho dòng chảy theo mùa thay đổi , chử không thay đổi dòng chảy tổng thể ?.
( con tiep theo)
|