.
  Hà nội P 3
 
4*9/2014

 
 
Phần 3

    Phát triễn giáo dục, nền tảng phát triễn kinh tế, xã hội
 
   Thăng Long- Hà Nội là nơi hình thành Nhà nước đầu tiên, đất đế đô của các  triều đại Việt Nam, một vùng địa linh nhân kiệt. Người Hà Nội kết tinh đầy đủ đặc tính  phẩm chất  của  nguời Việt Nam, nhất là sau khi thống nhất đất nước năm 1975 đã thu thập thêm văn hóa  Sài Gòn  ảnh hưởng Hoa Kỳ và Hoa  kiều ( Đài Loan , Singapore … ) cận đại, thay vì chỉ  mô phỏng văn hóa  Mao Trạch Đông và Nga Sô Viết.  Nền tảng phát huy văn hóa là giáo dục đào tạo. Hà Nội là trung tâm giáo dục lớn nhất nước. Thập niên 1940, Hòang Trọng Phu đã thuyết  phục Pháp mở trường tiểu học khắp mọi làng Bắc Kỳ,  sử dụng ngân sách Đông Pháp thừa thải  lúc đó. Phòng trào chống nạn mù chữ  và Bình Dân học vụ  cũng đã góp phần vào phát triễn chữ quốc ngữ và trung tiểu học miền Bắc.  Chương trình Trung Tiểu học Hà Nội tương tự hệ thống K- 12 ở ngành giáo dục Hoa Kỳ ngày nay.  Tiểu học là từ lớp 1 đến lớp 5, trung học từ lớp 6 đến lớp 9  và cao trung từ lớp 10 đến lớp 12 .  Phần lớn trường Mẩu Giáo - kintergardens là của Nhà nước lập ra ; nhưng có rất nhiều mẩu giáo do tư nhân địa phương  hay quốc tế đảm trách , theo nhu cầu của họ.  Các trường trung- tiểu học Hà Nội cũng do nhà nước điều khiển, nhưng cũng  có vài trường tư độc lập. Trình độ học vấn của nguồn lao động Hà Nội  thuộc lọai  cao nhất tòan quốc. Năm 2000, lao động có kỷ thuật chiếm 36 % người lao động, có trình độ học vấn  đại học và cao đẳng chiếm 11.1 %. Hiện nay ước lượng 62 % các nhà khoa học Việt Nam sinh sống và họat động ở Hà Nội. Muốn vào các trường đại học hay cao đẳng phải thi vào.  Vì phần lớn các viện đại học  chánh  của Việt Nam là ở Hà Nội , nên  hàng năm  học sinh miền Bắc ồ ạt về Hà Nội dự thí. Thi tuyễn vào tháng 6 và tháng 7,   nên sinh viên và gia  đình cha mẹ họ đến  Hà Nội đông đúc, sống vài tuần lễ hai tháng này. Những năm gần đây  thi tuyễn do bộ giáo dục  phối hợp tổ chức, nhưng  trúng tuyễn là quyết định độc lập  của mỗi Viện hay trường Cao đẳng .
   Đa số  các Viện Đại học ở Hà Nội là của Nhà nước, tuy rằng những năm gần đây  có vài viện Đại học tư được thành lập và hoạt động. Như  Viện đại  học Thăng Long, do vài gíáo sư Tóan Hà Nội và Pháp Quốc  thành lập năm 1988, là viện đại học  tư  đầu tiên ở Việt Nam. Vì Hà Nội là thủ đô Đông Pháp,  nên  các đại  học kiểu Tây Phương được thành lập ở đây . Gồm Trường Y Khoa Đông Dương - Indochina Medical College năm 1902,  nay là Viện Đại học Y khoa Hà Nội,  Viện đại học Đông Dương - Indochina  University năm 1904, Trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Dông Dương - École Supérieure des Beaux- Arts  năm 1925, nay là  Viện  Đại học Nghệ Thuật . Khi đảng Cọng sản  tái chiếm Hà Nội năm 1954, Nga Sô Viết đã giúp thiết lập  nhiều Viện Đại học mới, đặc biệt là Viện Đại học Kỷ thuật  Hà Nội University of Technology, nay vẫn là viện đại học kỷ thuật lớn nhất nước . Viện đại học lớn nhất là Viện Đại Học Quốc Gia Viêt Nam -  V N National University, một hệ thống  gồm 10 Viện đại học . Các Viện đều tự trị, được xem là riêng biệt nhau, tuy rằng cùng chung dưới một dù che . Chúng gồm luôn Viện đại học Khoa Học - VNU University of Sience,  Viện đại học Khoa học và Nhân Văn-  University of Science and Humanities , Viện đại học  Ngọai ngữ và Nghiên cứu Quốc tế - The University of Languages  and International Studies, viết tắt là ULIS  ( một trong trao đổi quốc tế lớn nhất ) . Viện đại học Công Nghệ và Kỷ thuật - VNU University  of Engineering  and Technology, Viện Đại học Kinh tế và Kinh doanh - VNu University of Economics and Business , Viện Đại học Sư Phạm nhỏ hơn. Viện  Đại học Quốc gia Việt Nam  cũng có nhiều viện đại học gia nhập ở những khu cư xá- campus  vệ tinh.  Các đại học  gia nhập là Trường Luật -  VNU School of Law,  Trường  Kinh Doanh - VNU School of Business , Trường  Cao học - VNU School of Graduate Studies , Trường Quốc tế -VNU International School, Trường Y khoa và Dược Khoa - VNU School of Medicine and Pharmacy . Ngoài 10 viện đại học chánh gia nhập VNU,  còn nhiều  Viện  Khảo Cứu khác tỉ như  viện  Kỷ thuật Thông tin Hà Nội -  HaNôi VNU Information Technology Institute,  viện Vi trùng học và  kỷ thuât sinh học - VNU Institute  of Microbiology and Biotechnology, viện Nghiên cứu Việt Nam và Phát triễn Khoa học - VNU Institute  of Viêtnamese  Studies  and Development Sciences, viện Bảo đảm Phẩm giá Giáo dục - VNU Institute of Education Quality Assurance, viện  cho các quốc gia Pháp ngữ và Thông tin học - VNU Institute for Francophones and Informatics . Ngòai ra còn có  nhiều trung tâm huấn luyện và khảo cứu. Tỉ như  trung tâm huấn luyện Lý thuyết Chánh trị cho Giáo chức-  VNU Training center for Teachers of Political Theory, trung tâm  cho Tài Nguyên Quốc gia và cho Nghiên cứu Môi Trường- VNU Centre  for Natural Resources and Environmental Studies , trung tâm  huấn luyện Quốc phòng và An ninh Quốc gia -  VNU National Defense and Security Training Centre,  trung tâm  Quốc tế  cho Khảo cứu Tiên tiến về  Thay đổi Tòan Cầu -  VNU  International for the Advance Research on Global Change …. và  mới  đây nhất là  trung tâm Nghiên cứu Đô thị - VNU center for Urban Studies .  Cuối cùng  Viện Đại học Quốc gia Việt  Nam  cũng có  một khu vực tên gọi là Những Đơn vị Dịch vụ - Service Units  như  Tạp chí khoa học - VNU Journal of Science, Nhà xuất bản VNU Publishing House, trung tâm Thư Viện và Thông tin - VNU Library and  Information Centre…. Mới đây Trung tâm  ULIS đã được xếp  vào hàng đầu các viện đại học Đông Nam Á  về  nghiên cứu  Ngọai ngữ  ở cấp cử nhân  và đã trao đổi  sinh viên   với nhiều viện đại học khác trên thế giới  và  trao đổi   Học  Việt Ngữ  cho nhiều sinh viên ngọai quốc. Chương trình ULIS hợp tác với viện đại học Southern New Hampshire University ở Hoa Kỳ,  là một trong những  chương trình  Nghiên cứu Anh Ngữ  lớn nhất và họat động tốt nhất.  Năm 1950,  ULIS có tên là trường Ngọai Ngữ . Năm 1958, trường nhập vào Viện  Giáo Dục viện Đại học Hà Nội  làm ra Khoa Giáo dục Ngọai ngữ.  Năm 1993, mới đổi  thành Viện Đại học ULIS.  Năm 2012 , ban giảng huấn quốc tế và quốc gia đã  mở rộng thêm và nay  ULIS đã có giáo sư, giảng viên nhiều quốc gia như Nhật,  Nga, Pháp,  Đức, Đài Loan,  Nam Hàn và Hoa Kỳ đến dạy .
 
 Du lịch Hà Nội  trong khuôn khổ du lịch cả nước
 
    Với  gần 1000 năm văn hiến, Hà Nội đã lưu giữ được nhiều di tích văn hóa- lịch sử, nghệ thuật, kiến trúc, tạo thành  một bộ sưu tập qui gíá trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam. Hà Nội thuộc vào lọai cao nhất cả nước về nhiều lại di tích độc đáo gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước ( thành Cỗ Loa, di tích Phù Đổng-  thánh Dóng ... , cùng những di tích văn hóa tiêu biểu  của dân tộc( khu Văn Miếu, quần thể đền chùa đã  kể trên ), các viện bảo tàng, các họat động văn hóa, văn nghệ dân gian, ( các lễ hội ) có sức  thu hút  du khách. Vai trò Hà Nội mỗi ngày mỗi quan trọng thêm, khi du lịch tăng gia ở Việt Nam, nhất là khi Chánh phủ tháo gở nhiều nút thắt điều hòa quá đáng, giúp du khách ngọai quốc di chuyễn  dễ  dàng hơn kể từ năm 1997, và nền kinh tế Việt Nam chuyễn  từ xã  hội nông nghiệp qua một nền kinh tế  dịch vụ.  Hơn  ⅓ GDP nay do dịch vụ tạo ra, gồm luôn cả  khách sạn, tiệm ăn uống và ở lảnh vực giao thông, chuyên chở. Trong khi công nghệ và xây cất chỉ còn chiếm 28% và nông- lâm -ngư chỉ còn 20 %. Năm 2007, ngành du lịch đã chiếm  4.5 % GDP. Càng ngày đầu  tư trực tiếp ngọai quốc ởHà Nội càng tụ điểm vào du lịch.  Sau khi  phát triễn công nghệ nặng  và đô thị, phần lớn  đầu tư ngọai quốc  nay tập trung vào  ngành  du lịch, đặc biệt  các dự án làm khách sạn. Năm 2013, chánh  phủ Việt Nam muốn đầu tư ít nhất là 94. 2 tỉ đô la Mỹ vào hạ tầng cơ sở du lịch nước nhà . Việt Nam hy vọng  đón mời 7.2  triệu du khách ngọai quốc và thu nhập 9.1 tỉ đô la Mỹ năm 2013.      
     Tổng số du khách  đến Việt Nam năm 1995 chỉ mới là 1351 300  lượt người. Năm 2000 tăng lên  đến 2 140 100 (  trong số này du khách ngọai quốc đến Hà Nội là 380 000 lượt ). Năm 2005 là 3  467 757.  Năm 2010 là  5 049 855, vượt qua suy giảm năm 2008 kinh tế thế giới khủng hoảng, năm 2009  chỉ có  3 772 3 59 ( giảm  10.9 %)   và năm 2013 đạt mức 7 572 352 , cao hơn dự tính 7.2 triệu,  tăng 10 % so với năm 2012 . Năm 2013 , khách Trung Quốc  đến Việt Nam nhiều nhất là 1 907 794 , cao hơn năm 2012 là 1 428 693 và năm  2011 là 1416 804. Sau Trung Quốc là Nam Hàn đạt  748 727 năm 2013, Nhật  604 050, Hoa Kỳ  hạng bốn  432 228 , Đài Loan  398 9990, Căm Bốt 342 347, Mã Lai Á  339 510, Úc Châu 319 636, Thái Lan  268 968 và Pháp hạng 10 là  209 946 ( ít hơn năm   2012 là 219 721 và năm 2011 là 211 444 lượt ).  
 
     Các Khách sạn Hà Nội .
Năm 1999 , Hà Nội chỉ có 331 khách sạn- hotels với 9369 phòng, bao gồm 201 khách sạn quốc doanh,17 khách sạn liên doanh với nước ngòai và  214 khách sạn  ngòai quốc doanh . Trong số này,  67 khách sạn được xếp sao  ( 3 khách sạn 5 sao, 3 khách sạn  4 sao ,18 khách sạn   2sao  và 13 khách sạn 1 sao ).  Các khách sạn lớn Hà Nội năm 1999 là Khách Sạn Thống Nhất  ở trung tâm quận Hòan Kiếm  có 94 buồng với 170 giường, có quầy bar,  phòng lớn  phục vụ  các cuộc hội họp, hội nghị … ; Khách Sạn Hòa Bình  đường Lý Thường Kiệt,  có 59 buồng   gồm 168 giường, quầy mỹ nghệ  bán nhiều  mặt hàng phong phú;  Khách Sạn Dân Chủ ở đường Tràng Tiền  có 29 buồng gồm  56 giường; Khách sạn Hòan Kiếm  ở đường Trần Hưng Đạo chỉ có 15 buồng và 32 giường, nhưng  dịch vụ ăn uống của Khách sạn khá phát triễn, có  phân xưởng sản xuất bánh mì, bánh ngọt … ; Khách Sạn Thắng Lợi ở đường Yên Phụ Hồ Tây là khách sạn lớn nhất của Du Lịch Hà Nội  năm đó, có 174 buồng, gồm 420 giường , nhiều buồng đặc biệt  có phòng và hội trường lớn  phục vụ các hội nghị  tầm cở  quốc gia và quốc tế, ngòai ra còn có bể bơi, sân quần vợt, nơi khiêu vũ và vui chơi giải trí …
    Nay Hà Nội đã có  1100 khách sạn  lớn được duyệt xét.  Đến đầu tháng 8 - 1914, Trip Avisor ở Texas - Hoa Kỳ cho biết  trong số 493 khách sạn Hà Nội duyệt xét xếp hạng cả thảy là 73 277 lần ( nhắc lại  cũng vào tháng 8 - 2014,  Sài Gòn - TP HCM  có 1252 khách sạn được Trip Advisor xếp hạng sau  55 493 lần duyệt xét và Las Vegas  có 448 khách sạn xếp hạng  sau  343 531 lần duyệt xét) : Oriental Central Hotel   xếp hạng nhất , Hanoi Elegance Ruby  hạng nhì , 55C Lane 168 Hảo Nam Hotel hạng 3 và Essence Hanoi  Hotel hạng 4. Nhưng một xếp hạng khác  (tính từ  1 hạng thấp đến số 5 hạng cao nhất ) thì Hanoi Meracus Hotel 1  số  5;   các  khách sạn số 4.5 là: Hanoi Bella Vita Hotel , Hanoi Serendipity  Hotel,  Rising Dragon - Thăng Long Hotel,  Hanoi Legacy Hotel - Hàng Bạc,  Church Boutique Hotel Hàng Cá, Camellia 4 Hanoi Hotel, Hanoi Legacy Hotel Bát Sứ;  khách sạn số 4 là  Zephyr Hotel, May de Ville  Old Quarter Hotel, Especen Hotel, Asean Resort, Hanoi Style Hotel; Khách sạn số 3 là  Bắc Sơn International Hotel và khách sạn đạt số 2 là Democracy Hotel. Điều đáng chú ý, cũng  theo TripIndex của TripAdvisor,  từ tháng  1 tháng 6  đến 31 tháng 8 năm 2012 ,  Hà Nội là Thành phố  rẽ nhất trên thế giới  để  nghĩ một đêm ở các khách sạn 2 sao hay 3 sao, gồm có   những côcten, ăn tối 2 món chánh, có một chai rượu vang và hai chuyến tắc xi di chuyễn chừng 3.2 km- 2.0 dặm Anh. Chỉ tốn cả thảy là 141,12 đô la Mỹ, 27% của  phí tổn  ở thành phố  đắt nhất  thế giới là Luân Đôn - London, tốn đến 518.01 đô la.
    Các món ăn ngon  truyền thống Hà Nội  là phở, chả cá, bánh cuốn và cốm. Hà Nội ăn phở điểm tâm  ở nhà  hay ở quán cà phê vệ đường, nhưng phở  cũng là một món ăn  buổi trưa hay buổi tối . Hai lọai chánh là phở bò và Phở gà.  Global Post đã xem phở Việt Nam  là một trong  5 số món ăn đường phố - street food hạng chóp bu -  Top5  thế giới. Cựu Tổng thống Bill Clinton và  vợ là cựu  Tổng trưởng ngọai  Hillary Clinton đã khen phở Sài Gòn ( thật ra nguồn gốc Hà Nội ) là ngon.  Bánh cuốn Thanh Trì, chả cá Thăng Long, bánh tôm, cốm Vòng... Hà Nội là các món ăn đặc sắc,  khó quên, không  chỉ với dân trong nước  mà còn cả với ngọai quốc  nữa. Hà Nội còn nổi tiếng  với rượu Kẻ Mơ  làng Hòang Mai, làng Thụy Khuê.  Đặc biệt hơn nữa  là các đĩa thịt cầy - thịt chó  (dân Hàn Quốc rất tán thưởng), thịt rắn và nhiều món ăn  lọai sâu bọ. Làng Khương Thượng có một số tiệm ăn  bán các món  thực đơn sâu bọ hấp dẫn, như trứng kiến - ant eggs,  các món ăn  kiểu các tộc  dân Thái, Mường, Tày - Thổ … hút dẫn du khách trong và ngòai nước đổ xô vào các quán ăn ngon  phía Tây khu  phố - phường cũ, để thưởng thức một lọat các món ăn ngon, nấu nướng nghệ thuật đặc biệt đất Bắc, từ một lô  bếp mi ni  bên trong tiệm ăn. Muốn thưởng thức các món ăn  tối  truyền thống Đông Pháp, hãy đến tiệm La Badiane,  đầu bếp  thiện ngự Pháp Chef Benjamin Rascal dọn ra ở  một sân trong -patio yên tĩnh. Hoặc đến một căn nhà  Pháp thuộc địa  phố cũ  tên gọi là Câu Lạc Bộ Ly - Ly Club,  ăn tối  sang trọng những món ăn Việt Nam tuyệt diệu ngon lành. Ba tiệm ngọai quốc  hàng đầu Hà Nội khác là  ăn kiểu Pháp ở tiệm French  Grill,  ăn kiễu Mỹ- Hoa Kỳ ở tiệm Purple Cherry và ăn tối ở  tiệm Essence Restaurant .      
   Du khách đến Hà Nội không thể bỏ qua  xem  kịch nghệ sân khấu, đàn ca ,múa,  xiếc mới cũ.  Nghệ thuật sân khấu đặc sắc  truyền thống Thăng Long là chèo, múa rối nước , xiếc . Bài Chòi  một lọai kịch dân ca  mới xuất hiện  đầu thế kỷ 20  và Kịch Nói , một hình thức sân khấu du nhập từ phương Tâyvào Việt Nam   sau Thế Chiến Thứ Hai . Rối Nước, theo Tô Đông Hải - 2000, là nghệ thuật biểu diễn  dân gian Việt Nam, gắn bó với mặt đồng ruộng, hồ ao nét điển hình cảnh sắc đồng quê  thiên nhiên, cảm hứng theo lao động sản xuất đời sống xã hội nước nhà.  Bắt đầu  vào thời Tiền Lê ( 980- 1009 ), đến thờì Nguyễn Phước ( 1802- 1858 ) các phường hội Rối Nước  nổi tiếng ra  đời và bắt đầu ổn định  như các phường Nguyên Xá ( Thái Bình ), Nam Chấn ( Hà Nam Ninh ), Đào Thúc ( Hà Nội ).   Rối Nước thường ngắn gọn,  luôn thay đổi,  kết hợp với  âm nhạc, pháo hoa, lữa đốt ….  phản quang  trên mặt nước  tăng thêm  vẽ lộng lẫy và sức hấp dẫn . Rồi Nước là lòai hình nghệ thuật  mang tính tổng hợp rất cao  nhiều lọai hình nghệ thuật dân gian khác : thủ công, đan lát , chạm khắc, sơn thếp, vẽ màu, làm pháo, kiến trúc , thêu thùa , âm nhạc nhảy múa, thi ca, văn học ….Năm 1957,  Trường Nghệ Thuật Sân Khấu và Trường Kịch Nói ra đời, đào tạo hàng trăm diễn viên trẽ, trong số này nhiều nguời đã  trở thành nghệ sĩ ưu tú, xuất sắc ngày nay.  Chèo cũng ra đời sớm ở đất Bắc, trong khi Tuồng đi vào cuộc sống cung đình. Kịch bản Chèo  được kết cấu trên hình thức kể chuyện  dân gian  và thể hiện bằng  các điệu thơ dân tộc  như ca dao, vè , thơ lục bát . Còn  kịch bản Tuồng lại chủ yếu  sáng tạo trên  truyện cổ Trung Quốc, thể hiện  bằng các hình thức  văn thơ cổ điển như thơ Đường, phú, song thất lục bát và lục bát v.v… Ngành Chèo tính đến năm 2000 đã thu thập được trên 70 kịch bản  từng công diễn  trên các sân khấu miền Bắc, thời kỳ  trước Cách Mạng tháng 8 năm 1945. Năm vở Chèo hay trong số  8 - 9  vở được nhà nghề xem là tiết mực truyền thống, số vở hay nhất cả về nội dung  lẫn nghệ thuật, đòi hỏi mọi nghệ nhân phải tinh thục.  Đò là Chèo cổ khuyết danh, theo Trần Việt Ngữ-  2000 biên sọan: Trương Viên, Quan Âm Thị Kính,  Lưu Bình Dương Lễ,  Kinh Nham  và Chu Mãi Thần. Theo Ngô Linh Ngọc - 2000, nghệ thuật Ca Trù  đã có mặt ở Việt Nam  từ trên 10 thế kỷ rồi. Bộ Việt sử thông giám cương mục  chép rằng  tháng 8 năm 1025,  Lý Thái Tổ  chánh thức đặt chức Quản Giáp để  quản lý các  phường và tuyễn đào kép  ca trù  vào cung lập ra Ban Nữ Nhạc.Tên “ Ca Trù”, đã nói lên nguồn gốc hết sức xa xưa  của môn nghệ thuật này. “ Ca”   là hát gồm cả đàn, phách và các nhạc cụ khác kèm theo. “ Trù”,  biến âm  cũa tiếng trò, là trò vui gồm các tiết mục múa, nhào lộn, kéo co cách điệu  hề vai Thày Bèo   …  Dưới các vương triều Lý, Trần, Lê ca trù phát triễn rất mau. Nhiều vua, chúa, vương hầu, đại khoa  tham gia sáng tác nhạc  múa Ca Trù , như điệu múa Bài Bông đời Trần phục vụ hội lớn 3 ngày  “ Thái Bình Diên Yến”  ăn mừng chiến thắng quân Nguyên;  Tháp Nhạc  và các bài Thống Thiên Thai  của Trịnh Cương và  Trịnh Sâm.  Nội dung các bài hát ca trù thường ca ngợi đất nước, nhắc nhở truyền thống dân làng, giảng kinh truyện, khuyên đạo lý  với các  giọng Hát sử, Dã sử, Đào luồn Kép vói, địa phú, ngâm thơ … điểm nhịp bằng tiếng trống, chiêng, đàn đáy, sên phách, giữa khói hương ngào ngạt. Từ giữa thế kỷ thứ 17 trở đi , lối Hát Nói một thể thơ mới Việt Nam , phát triễn rất cao để đi sâu hơn  vào việc tả tình, tả cảnh, nói lên tâm sự  con người. Nhiều bài Hát Nói như Vịnh Tiền Xích Bích của Nguyễn Công Trứ, Hương Sơn Phong Cảnh của Chu Mạnh Trinh, Đào Hồng -  Đào Tuyết của Dương Khuê, Chơi Hồ Tây của Nguyễn Khuyến… có thể xem là những áng kiệt tác  trong văn Nôm ta. Các năm 1973 và 1978, các hội đồng sưu tầm  âm nhạc  truyền thống thế giới  của tổ chức Liên Hiệp Quốc UNESCO và Châu Á  đã trao giải thưởng lớn nhất  cho tiếng hát ca trù Việt Nam  qua  giọng hát của lão nghệ sĩ Quách Thị Hồ. Về Tân Nhạc và Nhạc Cận Đại Tây Phương  thì không mấy phát triễn ở Hà Nội, vì các tác giả tân nhạc, danh ca lại chuyễn về Sài Gòn theo cuộc di cư vĩ đại vào miền  Nam năm 1954- 1955 và  sau năm 1975  lại phát triễn tân nhạc di tản ở Hoa- Kỳ, Pháp, Úc … Các nhóm nghệ sĩ  như Tre  Xanh, Phù Đổng … lại được gửi ra ngọai quốc tham dự các lễ hội- festivals và trình diễn hòa nhạc - concerts cho các dân Việt di tản.  Tuy rằng ngay trong nước , vì lý do kinh tế- sinh sống, trình diễn  cổ nhạc  cho  đúng thị hiếu du khách ngoọai quốc, thường pha  tân nhạc dân gian - pop music , tân nhạc cận đại  Tây Phương , vì  các danh ca trẻ tuổi  hướng ra Tây Phương,  ăn mặc kiểu Tây Phương, bắt chước ca sĩ Tây Phương  và hát những bài ca ngọai quốc ( Tây Phương,  Hàn Quốc, Nhật, Đài Loan). Chỉ  có âm nhạc và múa  dân gian các  53 tộc dân ít người Việt Nam là tiến triễn khả quan.  Năm 1999 do Viện Âm Nhạc -  Institute of Musicology đề xướng, trình bày 130 nhạc cụ, chia ra làm  4 nhóm : Khèn , Cồng , Chiêng và đàn T’Rưng.  ( đã mô tã ở những bài phát triễn các tỉnh địa phuơng  ).
   Trong số  7 danh thắng   du lịch hướng dẫn là Hồ Hòan Kiếm, Hà Nội Phố - Phường cũ, Văn Miếu, Khách sạn Hà Nội Sofitel Metropole, Nhà Hát Lớn Hà Nội Opera House, xây năm 1911 phỏng theo Paris Opera,  có lẽ phải nhắc tới Lăng Bác Hồ  - HCM MausoleumNhà Tù Hỏa Lò. Lăng Bác Hồ  chính thức khởi công ngày 2 tháng 9 năm 1973, trên vị trí lễ đài Ba Đình cũ, do các kiến trúc sư Việt Nam và Nga Sô Viết cùng tham gia thiết kế, khánh thành ngày 29 tháng 8  năm 1975. Theo Nguyễn Vĩnh Phúc  - 2000,  xây lăng cố ý dùng nhiều lọai đá quí nhất : đá huyền đen  Vĩnh Linh- Quảng Trị, đá xanh màu mơ Sơn La, đá vàng nâu đất Nghệ  An, đá màu đỏ cờ xứ Thanh Hóa, đá ngọc  mận chín núi Piên Cao Bằng, đá sỏi quí Tuyên Quang… Gỗ qúi  cũng không kém đá. Gỗ lớn mấy sải tay ôm, chở từ miền Nam đến Hà Nội mùa xuân  1974 . Gỗ đinh lõi  vàng vân trắng. Gỗ mun đen như than đá. Gỗ  hương tía vân như ráng đỏ  trời chiều. Gỗ nu  có vân xoắn như  lượm tơ tằm.  Rồi còn  gỗ  các rừng đại ngàn miền Bắc . Sau lăng là những bồn hoa, những khóm cây tụ hội từ 4 phương đất nước : hoa ban Tây Bắc,  mai tứ quý, nguyệt quới, mai vàng  miền Nam,  bưởi Biên Hòa, dừa Bình Định, quế Trà Mi, đào Nhật Tân,  đào chiết từ gốc đào Tô Hiệu nhà tù Sơn La, hồng Bạch Hạc, táo Thiện Phiên  và các lọai hoa dâng hương tinh khiết như lài, mộc, ngâu, dạ  lý hương, ngọc lan …  Nhà Tù Hỏa Lò ( Mỹ gọi tiếng lóng là Hanoi Hilton Hotel )nơi giam giữ Thượng nghị sĩ John McCain ,  sau khi McCain,  khi đó là sĩ quan lái máy bay Hải Quân Hoa Kỳ, bị bắn rơi  tháng 10 năm 1967 ở Hồ Trúc Bạch và được dân Hà Nội cấp cứu.   
 
    Phát triễn chuyên chở giao thông cận đại  hổ trợ du lịch , thương mãi, dịch vụ , công nghệ
 
    Hà Nội là  một đầu mối giao thông quan trọng cho cả nước với sự hội tụ nhiều tuyến đường bộ , đường sắt , đường sông và đường hàng không. Hệ thống giao thông này cho phép nối liền Thủ Đô với các tỉnh trong nước và thế giới bên ngòai.  Không kể các đường phố nội thành ( 200km ), mật độ đường giao thông năm 1999  của Hà Nội đạt 3 062 km đường / km2 . Nhiều tuyến đường quan trọng như quốc lộ1, 3, 5 , 6… đã đi ngành qua Thành phố- TP . Hà Nội nay đã  xây xong  hai  xa lộ chánh nối  các phi trường với Thành Phố.  Xa lộ  từ TP qua cầu Thăng Long  chạy trực tiếp hơn Xa lộ số 1,  phải chạy dọc theo ngọai ô TP .  Các xa lộ  chánh  dùng chung cho  xe ô tô , xe gắn máy,  scooters, hai bên có đường dành riêng cho xe đạp. Hà Nội đầy rẫy xe tắc xi, thường có máy  đo đường để trả tiền, nhưng cũng nên thương lượng gía cả trước khi lấy tắc xi từ phi trường vào thành  trung tâm TP. Hà Nội hiện chỉ có phi  cảng quốc tế Nội Bài  ở huyện Sóc Sơn,   cách trung tâm TP chừng 40 km ( 25 dặm Anh ) về phía Bắc.  Hà Nội sẽ có thêm  một phi cảng quốc tế nữa, ở huyện Gia Lâm ( ? ) do ngọai quốc đầu tư  phí tổn lên đến 8 tỉ đô la Mỹ, đầu tư lịch sử lớn nhất nước.  Phi cảng mới sẽ thực hiện  theo 3 giai đọan, giai đọan 1 đã  bắt đầu năm 2011 và tiếp tục cho đến năm 2015 thì hoàn tất ? .  Hà Nội cũng là  đầu mối giao thông đường sắt lớn nhất Việt Nam.  Hội tụ về đây có 5 tuyến đường chánh : Hà Nội - Hải Phòng , Hà Nội - Sài Gòn, TP HCM ,  Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội -  Thái Nguyên và  Hà Nội-  Lào Cai . Mạng lưới đường sắt góp phần to lớn  trong việc phát triễn kinh tế xã hội Thủ đô .  Tàu cao tốc Thống Nhất-  Reunification Express  nối Hà nội đến Sài Gòn, từ ga Hà Nội, trước đây có tên là gà Hàng Cỏ, ngừng lại ở mọi thị trấn và tỉnh dọc theo đường . Tàu cũng chạy thường xuyên  từ Hà Nội đến Hải Phòng và nhiều thị trấn khác  đất Bắc. Cao tốc Thống Nhất do Pháp thuộc địa  thiết lập, cần đến 40 nằm mới xong , từ năm 1899 đến năm 1936 . Cao tốc dài 1726 km ( 1072 dặm Anh )  nối Hà Nội với TP HCM,  mất khỏang 33 tiếng đồng hồ. Tính đến năm 2005 , đường này  có 278 trạm ga trên  mạng lưới Việt Nam , trong số này 191 ga  dọc theo đường Bắc Nam .  Mạng lưới đường sông thủ đô,  chủ yếu  là sông Hồng và các nhánh sông Hồng.  Cảng sông Hà Nội , thiết kế 1.3 triệu tấn/ năm,  có thể  trao đổi hàng hóa  với phần lớn các tỉnh đất Bắc , thông qua các cảng Việt Trì, Nam Định, Thái Bình, Đáp Cầu, Bắc Giang...
 
     Phát triễn thương mãi từ các Đại Thương Xá - Mega Malls  
     Thương mãi Hà Nội đã vượt thương mãi Sài Gòn - TP HCM ?
 
    Năm 1998, Hà Nội có 260 cửa hàng thương mãi quốc doanh, trong đó  có hơn 61 000 hộ- gia đình kinh doanh buôn bán.  Họat động thương mãi trở nên tấp nập,  do việc mở rộng các thành phần kinh tế và việc chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các cửa hàng thương mãi quốc doanh lúc đầu lúng túng trước sự thay  đổi cơ chế thị trường và đã dần dần thích nghi  tình hình mới. Phần lực luợng  lao động  tham gia  thương nghiệp quốc doanh chiếm 65 % tổng số năm 1998.  Tương quan tổng mức bán lẽ xã hội  giữa quốc doanh và ngòai quốc doanh  là 30/70. Đẩy mạnh xuất khẩu là chủ trương thành phố  quan tâm, nhưng năm 1997, giá trị xuất khẩu của thành phố không cao, chỉ đạt được 1.2 tỉ USD -đô la Mỹ. Năm 2003, Hà Nội có 2000 doanh  vụ thương mãi với ngọai quốc, giao thương cùng  161 quốc gia và lảnh thổ quốc tế.  Mức tăng thương mãi  xuất khẩu  trung bình là11.6 %  một năm  thời gian 1996- 2000 và 9. 21 % thời gian 2001 - 2003.  Trước đây,  mặt hàng xuất khẩu chánh là hàng may mặc, hàng dệt kim, giày vải, thảm len  rau và hoa  trái cây tươi. Các hàng nhập khẩu nhiều là hóa chất, phân bón, nguyên liệu cho công nghiệp, máy móc thiết bị, phụ tùng, hàng tiêu dùng. Nhưng nay thay đổi lớn, cơ cấu kinh tế chuyễn qua du lịch, tài chánh , ngân hàng, mỗi ngày thêm quan trọng.  Các quận, huyện truyền thống buôn bán là Hòan Kiếm  và lân cận , nhưng phía Tây hai quận  Cầu Giấy và Từ Liêm  cũng đã trở  thành những nơi buôn bán phát đạt. Cuối năm 2013, không gian các tiệm buôn lẽ Hà Nội đã đuổi kịp Sài Gòn. Tổng số không gian bán lẽ Hà Nội, dân số còn ít hơn Sài Gòn,  là khỏang 1 triệu mét vuông và Sài Gòn chỉ là ít hơn phân nữa  tổng số này, vào khỏang 450 000 mét vuông.  Dự tính năm 2015  Hà Nội  sẽ có  2.2 triệu mét vuông , ba lần hơn dự tính Sài Gòn khoảng trên 700 000 mét vuông. Các hảng ngọai quốc  muốn kinh doanh ở Việt Nam, điển hình khởi sự hoạt động ở TP HCM, đã nổi danh là  trung tâm kinh tế nước nhà.
   
         Các Đại Thương Xá- Siêu thị hàng hóa dây chuyền ngọai quốc
 
       Nhưng ý niệm truyền thống này đang thay đổi vì Hà Nội tăng trưởng mạnh những năm qua. Hình như tháng 3 năm 2014, nhóm buôn bán lẽ lừng danh   Central Group của Thái  sẽ đặt trụ sở khu Vincom MegaMall Royal City, sẽ làm  ngành buôn bán lẽ  Hà Nội thay đổi nhiều, vì Central Group Thái Lan  tung ra nhiều nhãn hiệu độc đáo. Cả hai Starbucks và  Burger King  chắc nay đã có tiệm ở Hà Nội ( đường nào ? ) cũng như  khổng lồ burger giant McDonald và Auchan, một dây chuyền siêu thị - hypermarket chain lớn nhất thế giới,  cũng  dự tính  đầu tư 500 triệu USD  vào Việt Nam 10 năm tới. Coopmart, một trong  500 nhà buôn  hàng đầu Á Châu  đã có mặt ở Sài Gòn  và trù liệu lập một trung tâm thứ  nhì  ở Hà Nội năm 2014 ( ? ). Hảng Nam Hàn Lotte  dần dần cũng cố 4 vị trí của mình ở TP HCM , Đồng Nai - Biên Hòa  và Đà Nẳng.   Giữa năm 2014, sẽ thiết lập Lotte Hànoi Centre  thứ 5, một Phức tạp buôn bán tư nhân đầu tiên ở Hà Nội tại Tháp Tòa  Mipec Tower . Các Đại Thương xá mua  sắm, Siêu thị hàng hóa - Super Markets - Megamalls  đáng kể ngày nay ở Hà Nội là : BIG C - Savico Mega Mall  ở đường Nguyễn Văn Linh, Long Biên, huyện  Gia Lâm,  hòan thành tháng 11 năm 2011, lầu 3 tầng, điều hòa không khí ,900 chỗ đậu xe hơi ( có mái che  trong tương lai.  Savico Megamall  chỉ cách quận trung tâm  doanh nghiệp Hà Nội- Central Business District  5 km. Thương Xá  rộng 14 000 m2 gồm siêu thị tầng hầm và ba  tầng lầu bán hàng hóa ( tầng 1:  Thời trang và phụ thuộc, nữ trang - châu báu,  phấn sáp và nước hoa xức;  tầng 2 : điện tử , bàn ghế và trang trí gia thất , đồ con trẽ ăn mặc ; tầng ba :  tiệm ăn và giải trí ) . Royal City Mega Mall là thương xá  ngầm lớn nhất Á Châu,  ở đường Nguyễn Trải, quận Thanh Xuân, cách Hồ Hòan Kiếm chừng 6km. Rộng 230 000 m2  gồm cửa tiệm  buôn bán, tiệm ăn, khu phức tạp xi nê - cineplex,  một công viên nước - water park,  sân trượt băng nước đá - ice skating rink.  Times City Megamall  cách Hồ Hòan Kiếm  chừng 5 km,  ở quận Hai Bà Trưng, cũng là một Đại Thương Xá rộng 230 000 m2  gồm nhiều tiệm buôn bán, tiệm ăn,  phức tạp xi nê, giữa công viên là một  vòi nước phun âm nhạc đồ sộ  và một bể nuôi cá khổng lồ.  Các Đại Thương  Xá khác là Tràng Tiền Plaza , ngay bên cạnh bờ Hồ Hòan Kiếm, quận Hòan Kiếm. Vincom Center,   một thương xá cận đại  cách Hồ Hòan Kiếm chừng 2km,  ở đường Bà Triệu , quận Hai Bà Trưng  có Phức tạp xi nê Megastar cao cấp, Parkson Depatment Store , đường Tây Sơn , quận Đống Đa , tọa lạc ở một cột mốc  Việt Nam  là Tháp Cột Mốc Hà Nội Landmark Tower, tòa nhà cao nhất nước nhà, ở đường Phạm Hùng. The Garden Shopping Center  ở Mê Trì - Mỹ Đình,  huyện Từ Liêm  và Indochina Plaza ở đường Xuân Thủy, quận  Cầu Giấy.Mới đây nhất là hảng buôn bán lẽ Nhật  hàng đầu thế giới Aeon  sẽ đầu tư  200 triệu Mỹ kim –USD  ở quận Long Biên, lập một trung tâm buôn bán lẽ cao cấp ở vùng Đông Hà Nội, một vùng  phát triễn đang trổi dậy, ngang qua sông Hồng. 4 cầu  hiện hửu trên sông  Hồng đã  giúp đi đứng dễ dàng, ra vào mau lẹ  trung tâm Thành Phố, và 2 cầu mới dự trù xây thêm  là cầu Từ Liêm và cầu Long Biên 2 sẽ bổ sung cải thiện giao thông .
 
      Không quên được  các chợ, vùng thương mãi truyền thống  
 
      Và lẽ dĩ nhiên không thể quên lãng các chợ, các vùng đường  thương mãi cổ truyền - truyền thống như Chợ Đồng Xuân mua gì cũng có;  Chợ  Đêm - Market night  Hà Nội ở phố Hàng Đào mua đồ ăn mặc, vải vóc mở cửa từ 7 giờ chiều ba tối thứ sáu,  thứ bảy và chủ Nhật; Chợ Hàng Da ở đường Ngõ Trạm, chuyên bán  đồ da và đồ da lông  - fur , nhưng mua nhiều thứ khác ;  Chợ Tây - Western market ở đường Tô Ngọc Vân chuyên bán gia vị  hay các thành phần làm các món ăn ngon miền Bắc; Chợ Hàng Dậu ở đường hàng Dậu chuyên bán giày dép nhất là giày dép phụ nữ, đàn bà;   Vùng   đường Đinh Tiên Hòang chuyên bán giày ;  Vùng đường Hàng Gai ,chuyên bán lụa và vải ; Vùng  đường Hàng Hom,  chuyên bán đồ tiểu công nghệ, đồ khắc chạm và đồ đan tre - lát;  Vùng đường hàng Buồm chuyên bán kẹo, bánh ngọt;   Vùng đường Hàn Cân ( Cán, Cấn ? ), chuyên bán sách;   Vùng đuờng Lý Thái Tổ , chuyên bán hàng xa xĩ phẩm ngọai quốc …
 
    Phát triễn công nghiệp
 
    Trong phạm vi công nghiệp,  Hà Nội là trung tâm lớn thứ hai , sau thành phố Sài Gòn - TP HCM . Năm 1999, ngành công nghiệp Hà Nội chiếm  7.8 % giá trị tổng sản lượng  công nghiệp cả nước và 44.7 % giá trị tổng sản lượng  công nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng. Thu hút 29 % số lao động trong các ngành kinh tế của Hà Nội.  Phân theo ngành năm đó,  Hà Nội gần như có đủ mặt  các ngành  công nghiệp quan trọng, trong đó  4 nhóm ngành có ý nghĩa quan trọng :  cơ khí - kim khí ,  dệt -da - may,  biến  chế lương thực- thực phẩm và  đồ điện - điện tử. Ngành hóa chất năm 1997, tuy chiếm tỉ trọng tương đối cao   gần 10% tòan ngành công nghệ , nhưng lại có chiều giảm vì không phù hợp  với tính chất công nghiệp thủ đô. Năm đó, công nghệ Hà Nội chia ra 9 khu tập trung : Minh Khai- Vĩnh Tuy, Thượng Đình , Đông Anh, Cầu Diễn - Nghĩa Đô, Gia Lâm - Yên Viên, Trương Định - Đuôi Cá,  Văn Điển - Pháp Vân, Chèm, Cầu Bươu.  Đang cố hình thành  các khu chế xuất và khu tập trung kỷ nghệ cao  : khu chế xuất Sóc Sơn  ở phía Bắc sân bay quốc tế Nội Bài do Mã Lai Á đầu tư, sản xuất các lọai sản phẩm điện tử sản phẩm của máy vi tính, sản phẩm quang học, đồ chơi, đồng hồ;  khu công nghiệp tập trung Sài Đồng - Gia Lâm nằm ở địa phận huyện Gia Lâm cạnh quốc số 5 Hà Nội - Hải Phòng, do công ty Nam Hàn ( Hàn Quốc )  Daewoo đầu tư, tập trung sản xuất bóng hình, công nghiệp nhẹ, thực phẩm và đồ uống; khu công nghiệp tập trung Đông Anh, nằm trên địa bàn huyện Đông Anh, cạnh quốc lộ số 3 Hà Nội - Thái Nguyên, tập trung các ngành cơ khí máy móc giá trị cao, lắp ráp ô tô, xe máy, chế tạo lắp ráp đồ điện tử; khu công nghiệp  tập trung  phía Nam  cầu Thăng Long, tập trung các ngành kỷ nghệ cao, công nghiệp sạch ít hay không ô nhiễm. Năm 1998, Hà Nội đã sản xuất được 651 máy cắt gọt kim lọai, 38 000 động cơ điện, 205 000 quạt các loại, 150 động cơ diesel,  14 triệu mét khổ vải rộng , 8.5  triệu mét vải tuyn, 15 triệu chiếc quần áo  dệt kim, 6 triệu đôi tất ( vớ ), trên 1 triệu đôi giày dép da,12.3 triệu đôi giày vải, 24 000 tấn bánh kẹo  các lọai , 90 triệu lít bia,  475 tấn đồ hộp, 2.6 triệu lít nước mắm, lắp ráp 302 000 máy thu hình v.v...
     Hà Nội là một  thủ đô xinh xắn  xưa cổ đầy cây xanh hoa tươi, nhưng  nay lại là một trung tâm chánh trị, văn hóa cận  đại Việt Nam như đã mô tả trên. Tuy  dân Hà Nội, trước đây hòan tòan bị chủ nghĩa Xã hội Cọng Sản thống trị khe khắc, cho mình là văn minh nhất nước,  càng ngày càng tỏ ra lịch thiệp, cởi mở  và họat động hăng hái hơn, nay   khiêm tốn  và nhún nhường   công nhận rằng kiểu  sống mình còn thua kém Sài Gòn  -  TP HCM .T theo một báo cáo của PricewaterhouseCoopers cuối năm 2013 , Hà Nội là một thành phố phát triễn,  tính theo GDP  hạng nhất thế giới,  từ năm 2008  đến năm 2025 .  Dù  phần nào bị khủng hỏang  làm trì trệ , kinh tế  Hà Nội  vẫn là một thành phố   tăng trưởng mau lẹ ở Việt Nam ; năm 2013 mức tăng còn là 7.88 %. Giá trị công nghệ Hà  Nội  năm 2008 tăng 12.8 % so với năm 2007, giúp  cho ngành công nghệ -xây cất  chiếm 41.28 % GDP  ( n ăm 2008,  dịch vụ Hà Nội  là 52.17 % , và nông nghiệp chỉ còn 6.55 % ). Theo  chiến lược phát triễn kinh tế theo chiều hướng công nghiệp hóa   và hiện đại hóa   chủ yếu là đa dạng thêm, đầu tư  theo chiều sâu, thay đổi thiết bị  lọai cũ sử dụng nhiều lao động, hiệu quả thấp, huấn luyện đào tạo khảo cứu kỷ thật cao, tự quản , kỷ thuật xanh - sạch   chú trọng đến xử lý chất phế thải ảnh hưởng xấu đến môi trường và đời sống dân cư.  Đặc biệt ở  các khu  công nghiệp tập trung nằm xen kẻ các khu dân cư đông đúc (  Thượng  Đình,  Minh Khai - Vĩnh Tuy , Trương Định- Đuôi Cá ) .  Các ngành công nghệ phát triễn  từ năm 2008 đến năm 2010 là điện - điện tử,  sản phẩm  họa kiểu phần mềm -  product designing software và thiết bị , các công nghệ  dịch vụ thông  tin học- informatics  và điện tử , các cơ chế chế tạo nhất là tự động hóa, chế biến  thực phẩm và dược phẩm , và các vât liệu  xây dựng  mới. Năm 2010, công nghệ Hà Nội chiếm 80 % tổng số xuất khẩu của thủ đô  và mức tăng trưởng trên  15 % . Hàng xuất khẩu  chánh từ năm  2010 là đồ điện tử  kỷ thuật thông tin,  sản phẩm tự động hóa - automatic  products  và kỷ thuật sinh học - biotechnology.
   Trên phương diện các Công Viên Công Nghệ IP- Industrial Parks và  các Cụm Công nhê  I C  - Industrial Clusters  nên kể ra là Công  viên cao kỷ Hòa Lạc, rộng 1686 ha, và 28 IP  cường độ cao tổng diện tích là 9445 ha,   49 IP nhỏ và trung bình tổng diện tích là   2615 ha,  và  trên 117 điểm công nghệ - industrial points tổng diện tích là  1390 ha , công nghệ nhỏ và  các làng thủ công nghệ . Năm 2000, các làng công nghệ xa xưa vẫn còn tồn tại là làng gốm Bát Tràng , làng Vàng Định Công , làng đúc đồng Ngũ Xã,  làng giấy Bưởi … Không rỏ nay Hà Nội đã giải quyết ra sao những khuyết điểm phát triễn công  nghệ, phóng viên Hải Đức nêu lên ở bài báo tháng 3 năm 2012 : thiếu phân định rỏ rệt  vai trò liên kết giữa  các công  nghệ chánh,  dù rằng  các sản phẩm then chốt  có mức cạnh tranh cao ở thị trường quốc nội và quốc ngọai ; đa số các công  ty công nghệ then chốt  chỉ phá triễn nhất thời,  không thống nhất gì cả; chúng họat động theo kích thức nhỏ, tiểu tư bản, kỷ thuật  hủ hóa cỗ lỗ sĩ;   các đầu tư  mức cạnh tranh thấp, thiếu tụ điểm, hoang phí, không hửu hiệu và chậm rì;  phí tổn sản xuất cao vì  trông cậy  quá đáng vào vật liệu nhập khẩu, đem tới  giá trị cọng thêm  kém cõi. Cho nên chánh sách  đầu tư công nghệ Hà Nội  không mấy hấp dẫn so với các thị trấn- thành phố khác nước nhà; thiếu các cơ chế và  chánh sách hổ trợ  địa phương  khiến mức hửu hiệu đầu tư  cũng thấp kém ...  Hội nghị   Nhân Dân Đảng TP Hà Nội thứ 15  quyết nghị  là sẽ  động viên mọi tài nguyên  xây đắp  một thành phố thủ đô thịnh vượng, văn minh  và cận đại hơn   hướng theo  phát triễn  kinh tế  căn bản kiến thức, cải thiện  cơ cấu  kinh tế,  ưu tiên cho  phát triễn công nghệ cao kỷ  và sạch, tạo  các sản phẩm  giá trị cọng  cao và các công nghệ hổ trợ (  điện,  nước, bưu chính , viễn thông,  chuyên  chở phi trường , cảng sông … )  .  TP sẽ  tăng cường  đào tạo và phát triễn những lảnh vực và thành phần  nền kinh  tế kiến thức ( kỷ thuật thông tin, tự động hóa, kỷ thuật sinh học, và kỷ thuật vật liệu mới mẽ )  hầu  trở thành  trung tâm  dẫn đạo  khảo cứu  sản phẩm mới  họa kiểu và chế tạo máy móc .  
 Cũng như ở  Sài Gòn - TP HCM , Hà Nội đang phát triễn   các khu đô thị mới  và  cư xá thị trường địa ốc . Đó là các khu  đô thị  như Trung Hoa Nhân Chính , Mỹ Đình  và những khu cao sang xa xĩ , lộng lẫy  The Manor và Ciputra.
   Cuối cùng hai  đầu tư phát triễn nổi bật Hà Nội là vào   cuối năm 2013,  hảng  Samsung Electronics  Nam Hàn,   đã mua môn bài  xây cất  một trung tâm  Khảo cứu và Phát triễn ở Hà Nội làm các sản phẩm  cao kỷ sản phẩm điện tử cho Việt Nam ,  các nước Đông Nam Á và  cả thế giới ( ? ) … Mức đầu tư tổng cọng của Samsung lên đến 1. 5 tỉ đô la Mỹ.  Tháng 2 năm 2013, Global Sphere một hảng bất động sản,  tọa lạc ở xứ Dubai,  tuyên  bố xây cất  70 tháp tòa cư xá - residential  tower  ở một  địa điểm Hà Nội,  tục gọi là Hanoi  Wall Street. Mức đầu tư  giai đọan đầu lên tới 10 tỉ đô la Mỹ, hy vọng sẽ hòan tất năm 2020.
      …
          
                      ( Irvine, Nam Ca Li, Hoa Kỳ, ngày 21 tháng 8 năm 2014 )
 
   
 

 
 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 693763 visitors (2231930 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free