Cập nhật hiểu biết về ngành năng lượng Hoa Kỳ, phần nào liên quan đến ngành dầu - khí Việt Nam, Trung Quốc và thế giới:
Hậu quả chánh trị địa lý của Cách Mạng đá phiến chứa dầu
G S Tôn thất Trình
Vượt Nga về sản xuất năng lượng; vượt Saoudi Arabia về dầu lữa thô
Chỉ mới cách đây 5 năm, nguồn cung cấp dầu lữa thế giới tuồng như đã đạt đỉnh, và khi sản xuất khí dầu qui ước suy giảm ở Hoa Kỳ, Hoa kỳ có vẽ như trở thành phụ thuộc nhập khẩu khí dầu thiên nhiên tốn kém . Nhưng sau đó, những tiên đóan này tỏ ra sai lầm ngọan mục. Sản xuất năng lượng tòan cầu đã bắt đầu chuyễn ra khỏi các nhà cung cấp truyền thống ở Á Châu Âu Tây - Eurasia và Trung Đông - Middle East , qua những quốc gia khai thác các tài nguyên khí dầu và dầu lữa không qui ước khắp thế giới, từ Úc Châu, Brasil, Phi Châu và Địa Trung Hải đến vùng cát dầu - oil sands bang Alberta - Canada. Tuy nhiên, cuộc cách mạng lớn nhất đã xảy ra ở Hoa Kỳ, nơi các nhà sản xuất đã lợi dụng hai kỷ thuật mới mẽ có cơ sống còn được, mở khóa cho tài nguyên trước đây tưởng là không thương mãi hóa được: đào mỏ giếng dầu ngang , gíup các giếng đào xuyên vào đến những lớp diệp thạch- shale sâu thẳm dưới đất và bẽ gảy chạy bằng sức nước - hydraulic fracturing, fracking, sử dụng châm tiêm một chất lỏng cao áp, giải tỏa khí dầu và dầu lữa từ các tầng đá - rock formation .Việt Nam đã bắt đầu định lượng các cơ hội khai thác các mỏ dầu diệp thạch - shale gas nước nhà sau khi các nghiên cứu cho thấy là trử lượng bải methane than đá - methane coal bed không thương mãi hóa được, nhưng còn quá sớm để dự tóan khí dầu diệp thạch. Ngược lại Trung Quốc cho biết đã khám phá ra nhiều khí dầu diệp thạch vùng nham tướng biển - marine facies ở Phố ( Phúc )- Lâm( Linh,Lăng ) ? - Fuling , các bải than đá methane ở Nam Nghiêm Xuân ?- South Yanchuan và đang đầu tư khai thác
Thành quả việc nâng lên dấu kiểm sản xuất năng lượng này ở Hoa Kỳ, thật có nhiều bi kịch tính. Giữa các năm 2007 đến 2012, sản xuất khí dầu lớp diệp thạch ở Hoa Kỳ đã tăng thêm 50% mỗi năm và thành phần tổng số khí dầu Hoa Kỳ nhảy vọt từ 5% lên đến 39% . Các trạm ga cuối , trước đây có mục đích đưa khí dầu thiên nhiên lõng - liquified natural gas (LNG ) ngọai quốc đến các người tiêu thụ Hoa Kỳ, nay đã tái dạng lại để xuất khẩu LNG Hoa Kỳ ra nước ngòai. Giữa các năm 2007 và 2012, fracking ( kỷ thuật bẻ gãy chạy hơi nước ) cũng làm tăng 18 lần sản xuất Hoa kỳ về lọai gọi tên là dầu nhẹ dính chặc - light tight oil, một lọai dầu lữa cao phẩm chỉ tìm thấy ở diệp thạch hay đá cát và chỉ có thể khai thác bằng kỷ thuật bẻ gãy chạy hơi nước - fracturing . Phồn thịnh này thành công đảo ngược lại suy giảm lâu ngày của sản xuất dầu lữa thô Hoa Kỳ, cũng đã tăng thêm 50% từ năm 2008 đến năm 2013 . Nhờ các phát triễn này, Hoa Kỳ đang sắp sửa thành một siêu cường năng lượng. Năm 2013, Hoa Kỳ đã qua mặt Nga thành nước sản xuất năng lượng hàng đầu thế giới và năm 2015 theo các dự tóan của Cơ quan Năng Lượng Quốc Tế - International Agency , sẽ vượt Saudi Arabia - Xa U Đi Ẩ Rập thành quốc gia sản xuất dầu thô hạng nhất thế giới.
Nhiều người đã viết về khám phá các mỏ dầu lữa và dầu khí mới quanh thế giới, nhưng các quốc gia khác khó lòng sao chép được dễ dàng thành công của Hoa Kỳ . Cách mạng fracturing đòi hỏi không những chỉ là địa chất thuận lợi, mà còn phải là các nhà tài chánh chịu đựng được hiểm nguy, một chế độ quyền tư hửu - property rights cho phép các chủ nhân đất đai chiếm hửu tài nguyên dưới đất, một mạng lưới các nhà cung cấp dịch vụ, cống hiến hạ tầng cơ sở và một cơ cấu công nghệ có đặc điểm là gồm hàng ngàn doanh nhân, hơn là chỉ một công ty dầu quốc gia - quốc doanh .
Cách mạng năng lượng Hoa Kỳ không chỉ có các hệ luận thương mãi. Nó còn có nhiều hậu quả địa lý chánh trị sâu rộng. Các bản đồ buôn bán năng lượng tổng quát đã được vẽ lại khi các nhập khẩu Hoa Kỳ tiếp tục suy giảm và các nhà xuất khẩu tìm thấy những thị trường mới. Chẳng hạn, đa số dầu lữa Tây Phi nay chảy qua Á Châu hơn là đến Hoa Kỳ. Và khi sản xuất Hoa Kỳ tiếp tục tăng gia, nó sẽ áp lực kéo xuống giá dầu lữa và khí dầu, như vậy sẽ làm giảm bớt đòn bẩy chánh trị mà vài nhà cung cấp năng lượng đã nắm vững nhiều chục năm. Đa số các quốc gia sản xuất năng lượng mà nền kinh tế thiếu đa dạng, tỉ như Nga và các vương quốc vùng Vịnh - Gulf monarchies, sẽ mất mát nhiều, trong khi các quốc gia tiêu thụ dầu như Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia Á Châu sẽ thâu lợi thêm .
Thế nhưng Hoa Kỳ mới là kẻ hưởng lợi lớn nhất. Kể từ năm 1971, khi sản xuất dầu lữa Hoa Kỳ đạt đỉnh, năng lượng được giải thích là một công nợ - cản trở chiến lược cho Hoa Kỳ, luôn luôn thèm khát giá cả phải chăng cho nhiên liệu hóa thạch, đôi khi phải liên minh lạc điệu và đảm trách nhiều bổn phận phức tạp ở ngòai nước. Những lý lẽ này đã bị lật ngược lại và năng lượng mới mẽ đã mở khóa kín cho nền kinh tế Hoa Kỳ, cho phép Hoa Kỳ thực thi một thế đòn bẩy mới quanh thế giới.
Giá cả đứng đắn
Dù rằng tiên đóan tương lai thị trường năng lượng tòan cầu luôn luôn khó khăn, ảnh hưởng chánh cuộc cách mạng năng lượng Bắc Mỹ đã trở thành rỏ ràng: cung cấp năng lượng tòan cầu sẽ tiếp tục gia tăng và đa dạng hóa. Thị trường dầu khí đã là kẻ đầu tiên cảm gíac ảnh hưởng. Trong quá khứ, giá cả khí dầu biến thiên mạnh mẽ suốt khắp ba thị trường rất khác biệt nhau là Bắc Mỹ , Âu Châu và Á Châu. Chẳng hạn, năm 2012, giá khí dầu ở Hoa Kỳ là 3 $ đô la Mỹ cho một triệu BTU trong khi dân Đức phải trả đến 11 $ và dân Nhật phải trả 17 $.
Nhưng khi Hoa Kỳ sửa sọan tạo dựng và xuất khẩu những số lượng LNG lớn hơn, các thị trường này sẽ hội nhập mỗi ngày mỗi tăng thêm. Nay các nhà đầu tư đã tìm kiếm chánh phủ chấp thuận cho hơn 20 dự án xuất khẩu LNG ở Hoa Kỳ. Tưởng cũng nên biết là năm 2014, Việt Nam sắp cho đầu thầu xây dựng trạm ga cuối cùng - terminal nhập khẩu LNG đầu tiên dung tích 1.0 triệu tấn một năm ( ở Thị Vãi , Vũng Tàu ?) với hảng Tokyo Gas Company ) và đã ký kết xong thỏa hiệp với công ty Chevron Corporation trị giá hơn 3.4 tỉ $ đô la Mỹ, phát triễn các giếng trường khí dầu ngòai khơi Miền Nam Việt Nam. Như vậy, xuất khẩu LNG Hoa Kỳ sẽ tăng thêm nhiều dòng chảy LNG đã xảy ra ở các nơi khác. Úc Châu đang sắp qua mặt Qatar như thể là nhà cung cấp tòan cầu lớn nhất thế giới LNG. Vào năm 2020, Hoa Kỳ và Canada cọng chung có thể xuất khẩu xấp xỉ dung lượng LNG hiện nay của Qatar.
Dù cho hội nhập các thị trường Bắc Mỹ , Âu Châu, Á Châu sẽ đòi hỏi nhiều năm đầu tư hạ tầng cơ sở và rồi thì thành quả sẽ không thống nhất như thể thị trường dầu lữa tòan cầu, tình trạng có tiền dễ dàng tăng gia , sẽ gíup hạ bớt áp lực giá cả khí dầu ở Âu Châu và Á Châu trong thập niên tới .
Hậu quả địa lý chánh trị có thể đầy bi kịch tính nhất cho phồn tịnh bùng nổ năng lượng Bắc Mỹ là sản xuất dầu lữa tăng gia ở Hoa Kỳ và Canada sẽ làm gián đọan giá dầu lữa tòan cầu, có thể bớt đi 20 % hay nhiều hơn nữa. Ngày nay, giá dầu lữa được qui định phần lớn bởi Tổ chức các Quốc gia Xuất khẩu Dầu lữa- OPEC, điều hòa các mức sản xuất của các quốc gia hội viên. Khi xảy ra các gián đọan bất ngờ, các quốc gia OPEC ( chánh là Saudi Arabia ) cố gắng ổn định giá bằng cách gia tăng sản xuất, làm giảm bớt dung lượng sản xuất dự phòng - tiết kiệm. Một khi dung lượng dự phòng xuống thấp hơn 2 triệu thùng một ngày, thị trường trở nên hốt hỏang, và giá dầu có khuynh hướng gia tăng mạnh. Khi thị trường thấy khả năng dự phòng lên trên khỏang 6 triệu thùng một ngày, giá cả có khuynh huớng trụt xuống. Trong 5 năm qua, các hội viên OPEC đã cố tâm cân bằng yêu cầu đổ đầy các tủ két công cọng, với yêu cầu cung cấp đủ dầu cho nền kinh tế tòan cầu ầm ừ, và họ đã giữ được giá dầu khỏang từ 90 $ đến 110 $ một thùng.
Khi dòng chảy dầu lữa Bắc Mỹ tràn đầy thêm thị trường Bắc Mỹ , khả năng OPEC kiểm sóat giá cả sẽ bị thách thức. Theo các dự liệu từ Cơ Quan Thông tin Năng lượng Hoa Kỳ ,giữa các năm 2012 và 2020, Hoa Kỳ sẽ sản xuất hơn 3 triệu thùng dầu lữa mới và các nhiên liệu lỏng khác mỗi ngày, phần lớn là dầu nhẹ dính chặc . Nhắc lại năm 1987 Việt Nam chỉ mới sản xuất tổng cọng 8000 thùng dầu một ngày , năm 2012 sản xuất lên đến 363 540 thùng ( và 347 060 thùng dầu thô ), sản xuất cao nhất là 403 000 thùng năm 2004, đứng hàng thứ 34 trên thế giới năm 2012 .Sản xuất cả thế giới là 87 triệu thùng một ngày . Bồn Cửu Long là bồn dầu lữa chánh của Việt Nam . Như vậy từ 10 năm nay ,Việt Nam trung bình sản xuất 12- 15 triệu tấn dầu một năm. Thành công khám phá gần đây đã giúp Việt Nam tăng thêm dự trữ chứng minh dầu thô, tăng đến 4.4 tỉ thùng vào tháng giêng năm 2013 từ 0.6 tỉ năm 2011. Và còn có thể tăng thêm nữa, vì biển Việt Nam tương đối chưa thám hiểm hết . Việt Nam hiện nay đứng thứ 3 về dự trữ dầu lữa chứng minh ở Á Châu, sau Trung Quốc và Ấn Độ. Con số của Trung Quốc Sinopec- China Petroleum & Chemical Corporation là 61,3 triệu tấn , ( tổng cọng là 427. 9 triệu thùng) năm 2012 và 63.3 triệu tấn ( 442,9 triệu thùng ) năm 2013 , khỏang 5-6 lần hơn sản xuất Việt Nam .
Những thể tích mới này cọng thêm những cung cấp đến từ Irắc -Iraq và nhìều nơi khác , có thể gây ra một cung cấp thừa mứa , có cơ kéo giá cả xuống , đặc biệt khi yêu cầu dầu lữa tòan cầu teo lại vì cải thiện hửu hiệu hay tăng trưởng kinh tế chậm đi . Trong trường hợp này, có thể OPEC khó lòng duy trì trật tự trên các hội viên, mà rất ít quốc gia muốn giảm bớt sản xuất dầu lữa đối diện các đòi hỏi xã hội nẩy mầm và bất ổn chánh trị. Các giá thấp lâu bền có thể tạo ra thiếu hụt lợi tức các quốc gia cần thu về để tài trợ các chi tiêu .
Những kẻ thắng cuộc và những kẻ thất bại
Nếu giá dầu lữa trụt xuống và duy trì mức thấp, mọi quốc gia trên thế giới trông cậy vào lợi tức hydrocarbon sẽ tự thấy nhiều căng thẳng . Các quốc gia bị nhiều cấu véo sẽ gồm có Inđô nê xia và Việt Nam ở Á châu; Kazakhstan và Nga ở Âu Á - Eurasia, Colombia , Mễ Tây Cơ và Venezuala ở Châu Mỹ La Tinh ; Angola và Nigeria ở Phi Châu, Iran , Iraq và Saudi Arabia ở Trung Đông . Khả năng các quốc gia này chịu đựng các thụt lùi ngân sách biến đổi và tùy thuộc phần lớn là giá cả thấp kém kéo dài bao lâu . Ngay cả một hạ giá khiêm tốn, thể tích và đa dạng cung cấp dầu lữa cũng có thể đem lại lợi nhuận cho các nhà tiêu thụ năng lượng khắp thế giới. Các quốc gia nào muốn sử dụng nguồn cung cấp năng lượng nước nhà cho các mục đích chánh sách, thường là những phương cách đối nghịch quyền lợi Hoa Kỳ, sẽ thấy ảnh hưởng mình bớt đi .
Trong số các chánh quyền bị đánh mạnh nhất, Mạc tư Khoa - Moscow sẽ mất mát nhiều nhất . Dù cho Nga chứa đựng những dự trữ dầu lữa diệp thạch lớn lao, Nga có thể khai thác ngày nào đó, cung cấp tòan cầu thay đổi sẽ làm cho Nga yếu đi trong thời gian ngắn hạn. Dòng khí dầu Bắc Mỹ đi vào thị trường, không trả lại tự do đâu cho phần Âu Châu còn lại, rời khỏi ảnh hưởng Nga, vì lẽ Nga vẫn còn là nhà cung cấp năng lượng lớn nhất cho lục địa này. Thế nhưng các nhà cung cấp thêm vào sẽ giúp các nhà tiêu thụ Âu Châu làm đòn bẩy họ có thể sử dụng thương lượng tốt đẹp hơn với các nhà sản xuất Nga , như họ đã làm các năm 2010 và 2011. Âu Châu sẽ có lợi nhuận cao nhất khi có đổi thay, nếu Âu Châu hội nhập xa hơn nữa thị trường khí dầu thiên nhiên và xây đắp nhiều trạm ga cuối cùng nhập khẩu khí dầu. Những di động này sẽ tránh được các khủng hỏang như đã xảy ra khi Nga cúp cung cấp khí dầu cho Ukraine năm 2006 và 2009. Phát triễn các tài nguyên diệp thạch to lớn của chính Âu Châu càng giúp thêm nhiều hơn nữa .
Một giảm sút giá dầu duy trì liên tục có thể làm bất ổn hệ thống chánh trị Nga. Ngay cả khi giá dầy hiện tại gần 100$ một thùng , Điện Cẩm Linh - Kremlin đã lùi lại các mong đợi chánh thức tăng trưởng kinh tế hàng năm trong thập niên tới xuống khoảng 1.8 % và bắt đầu cắt giảm ngân sách. Nếu giá cả hạ xuống thêm nữa, Nga có thể đã chi tiêu hết ngân quỹ ổn định, buộc Nga phải giảm thêm ngân sách. Ảnh hưởng của tổng thống Vladimir Putin có thể giảm bớt, tạo ra những cửa mở mới cho các chống đối chánh trị của ông ở quốc nội và có thể làm cho Mạc Tư Khoa có vẽ yếu đi ở ngọai quốc.
Dù cho Tây Phương có thể hoan nghênh ý nghĩa là Nga ở tình thế căng thẳng này, một Nga yếu kém hơn không đương nhiên có nghĩa là Nga ít thách thức hơn. Mạc Tư Khoa đã cố gắng bù chì mất mát ở Âu Châu bằng cách nhập vào Á Châu mạnh mẽ hơn và vào thị trường LNG tòan cầu. Và Nga có mọi lý lẽ chống lại tích cực hơn những cố gắng Âu Châu phát triễn tài nguyên của chính mình. Thật thế, báo chí truyền thông quốc doanh Nga, công ty quốc doanh Gazprom và chính ngay cả Putin nữa, đã cảnh báo về những hiểm nguy môi sinh của kỷ thuật fracking ở Âu Châu, như báo The Guardian đã nói rỏ “ đó là một hiện tượng lạ lùng ở một quốc gia thường không quan tâm đến các khía cạnh sinh thái, đặt chúng vào đáy lịch trình”. Hầu làm chán nãn các đầu tư Âu châu về hạ tầng cơ sở cần thiết để nhập khẩu LNG , Nga có thể chiếm hửu trước cống hiến các nhà tiêu thụ Âu châu các thương thảo khí dầu thuận lợi hơn , như đã làm với Ukraine cuối năm 2013. Bi kịch tính hơn nữa là nếu như giá năng lượng thấp phá hại ngầm Putin và tăng sức các lực lượng quốc gia chủ nghĩa ở Nga, Nga có thể tìm cách bảo đảm ảnh hưởng trong vùng của mình theo những phương cách trực tiếp hơn, ngay cả dự liệu dùng sức mạnh quân sự.
Trong lúc đó, các nhà sản xuất năng lượng ở Trung Đông cũng sẽ mất ảnh hưởng. Saudi Arabia lâu ngày là nhà điều hòa dung lượng tiết kiệm dự phòng của OPEC và là một lảnh đạo Vùng, đáng cho chúng ta chú ý. Quốc gia này đang phải đối đầu những khó khăn thuế khóa. Saudi Arabia đã phản ứng về Mùa Xuân Ả Rập - Arab Spring bằng cách sinh cường chi tiêu công cọng ở nước nhà và cống hiến viện trợ kinh tế và an ninh hào phóng cho các chế độ Sunni khác trong vùng. Thành quả là kể từ năm 2008, giá da6`u thuế khóa huề vốn ( là các mức cần thiết để bảo đảm các cân bằng ngân ách mình ) của Saudi Arabia nhảt vỏt từ 40$ một thùng đến 90 $ năm 2014, theo Cơ quan Tiền tệ Quốc tế cho biết . Cùng lúc, nhiều áp lực đang đến từ dân số rất trẻ trung của quốc gia, đòi hỏi giáo dục, săn sóc y tế, hạ tầng cơ sở, công ăn việc làm tốt hơn. Và khi yêu cầu nội địa lớn lao tiếp tục gia tăng, quốc gia sẽ bắt đầu tiêu thụ nhiều hơn là xuất khẩu đến khỏang năm 2020 , nếu giữ nguyên những đường đi . Riyadh đã phải cố gắng khó nhọc đa dạng nền kinh tế . Nhưng một suy giảm giá dầu kéo dài sẽ thử nghiệm chế độ vương quốc duy trì các dịch vụ công cọng, tính cách hợp pháp vương quốc dựa trên đó. Các quốc gia Trung Đông khác, gồm luôn cả Algeria , Bahrain, Irắc, Libya và Yemen nay cũng đã sống trên các giới hạn của những giá cả huề vốn thuế khóa - fiscal breakeven prices .
Iran, hiện đang lảo đảo trước sức nặng các trừng phạt quốc tế và nhiều năm xử lý bừa bải kinh tế, có thể còn phải đối diện nhiều thách thức hơn. Iran đứng hàng thứ tư sản xuất dầu lữa và khí dầu, tùy thuộc vào các cung cấp năng lượng để gây ảnh hưởng trong vùng. Nhưng trong số các quốc gia hội viên OPEC. Iran có giá dầu huề vốn thuế khóa cao nhất, trên 150$ một thùng. Dù rằng giá dầu thấp hơn có thể giảm nhiều tính cách hợp pháp của chế độ Iran và như thế dọn đường cho những nhà lảnh đạo ôn hòa hơn, số phận các cuộc cách mạng gần đây ở Trung Đông, cũng như bộ tộc, tôn giáo và các nứt rạn khác của chính ngay Iran, phải cảnh báo chống lại niềm lạc quan này.
Ảnh hưởng cho Mễ Tây Cơ - Mexico , ít rỏ rệt hơn. Vì chưng mức sản xuất dầu ở Mexico đang giảm và trông cậy ngân sách quá nặng nề trên lợi tức dầu lữa, quốc gia này sẽ đau khổ nhiều nếu giá dầu hạ thấp. Đẩy mạnh mới đây về cải cách năng lượng có thể giúp Mexico tăng gia đủ sản xuất để nặng cân hơn khi các ảnh hưởng giá cả tòan cầu thấp hơn. Tuy nhiên, làm như vậy sẽ đòi hỏi chánh phủ tiếp tục luật cải cách đã thông qua tháng chạp năm 2013. Mexico phải thực thi luật lệ dẫn nhập nhiều hơn đầu tư tư nhân vào khu vực năng lượng, luôn cả các tài nguyên dầu diệp thạch của mình, và gia tốc cải cách Pemex, hảng quốc doanh dầu Mexico .
Khác các nhà sản xuất năng lượng, các nhà tiêu thụ sẽ hoan nghênh cách mạng năng lượng. Sản xuất Bắc Mỹ tăng gia, đã giúp làm độn các thị trường, bằng cách cung cấp sản xuất cọng thêm rất cần thiết, trong lúc xuất khẩu gián đọan mới đây ở Libya , Nigeria và Nam Xu Đăng ( South Sudan ). Giá năng lượng thấp hơn sẽ đặc biệt may mắn cho Trung Quốc và Ấn Độ, hiện đã là các nhà nhập khẩu chánh và theo Cơ Quan Năng Lượng Quốc tế, chúng ta sẽ thấy yêu cầu nhập khẩu dầu lữa tăng thêm 40% ở Trung Quốc và 55% ở Ấn Độ, từ năm 2012 đến năm 2035. Vì hai quốc gia này nhập khẩu nhiều năng lượng từ Trung Đông và Phi Châu, họ sẽ càng quan tâm nhiều hơn đến các vùng này.
Trung Quốc cũng thấy lợi ích theo một cách khác: liên hệ với Nga sẽ cải thiện rỏ rệt. Nhiều chục năm qua, lịch sử và ý thức hệ đã khiến hai quốc gia không kiếm ra được một nguyên nhân chung nào cả, dù rằng các lợi lộc hiển nhiên sẽ tăng thêm khi có hợp tác gần gủi hơn giữa một quốc gia sản xuất năng lượng và một quốc gia tiêu thụ lớn nhất thế giới, có đến 2600 dặm Anh ( hơn 3183 km ) biên giới chung. Nhưng khi năng lượng Bắc Mỹ càng ngày càng đến tận nơi, yêu cầu năng lượng ở các quốc gia đã mở mang vẫn phẳng dẹt và yêu cầu tiếp tục gia tăng ở các nền kinh tế đang ( chưa ) mở mang của Á Châu, Nga sẽ phải càng cố tìm kiếm bảo đảm những thị trường ở Phương Đông. Mạc Tư Khoa và Bắc Bình sẽ tiến đến gần hơn trên các thương thảo năng lượng và các ống dẫn dầu từ lâu ngưng trệ và sẽhợp tác cùng nhau trên những vấn đề năng lượng Trung Á - Central Asia. Một khi đã giải quyết xong xuôi, những xếp đặt này có thể trở thành căn bản cho một liên hệ địa lý chánh trị rộng hơn, trong đó Trung Quốc sẽ chiếm ưu thế .
Còn về phía Ấn Độ và các nền kinh tế Á Châu khác, lợi ích sẽ vượt xa kinh tế đơn thuần nhất. Một nẩy bật về số lượng khí dầu và dầu lữa chuyên chở xuyên qua Nam Hải Tàu, sẽ cung cấp một nguyên nhân chung cho mọi quốc gia tìm cách chống hải tặc và những hiểm nguy khác để giải tỏa dòng tàu chở năng lượng, giúp Trung Quốc thêm nhiều khích lệ hợp tác về các vấn đề an ninh. Cùng lúc, các đồng minh của Hoa Kỳ ở Đông Á, tỉ như Nhật Bổn, Phi Luật Tân và Hàn Quốc ( Nam Hàn ), sẽ có cơ hội gia tăng nhập khẩu năng lượng trực tiếp từ Hoa Kỳ và Canada. Khả năng của họ dựa vào các chung sức Bắc Mỹ, chuyên chở dầu kữa và LNG qua những đường biển ngắn hơn, trực tiếp hơn, sẽ giúp cho các quốc gia này yên tâm hơn .
Ưu điểm của Hoa Kỳ
Lẽ dĩ nhiên, Hoa Kỳ là nước hưởng lợi lớn nhất nhờphát triễn rầm rộ năng lượng BắcMỹ . Ảnh hưởng tức thời nhất sẽ là tạo ra liên tục công ăn việc làm mới và giàu có trong lảnh vực năng lượng. Nhưng xa hơn điều này , vì chưng khí dầu Hoa Kỳ là một trong khí dầu rẽ tiền nhất thế giới, công nghệ Hoa Kỳ dựa chủ yếu trên khí dầu làm nguyên liệu chế biến, như hóa chất dầu lữa và thép, sẽ tiếp tục nhận thấy ưu điểm cạnh tranh tăng thêm. Phát triễn rầm rộ- boom năng lượng cũng cung cấp búng nhẹ kinh tế đầu tư làm nhiên liệu cho hạ tầng cơ sở, xây cất và dịch vụ Hoa Kỳ . Viện Tòan Cầu McKinsey ước lượng là đến năm 2020, sản xuất dầu lữa và khí dầu không qui ước sẽ tăng cường cho GDP Hoa Kỳ hằng năm từ 2% đến 4 % hay chừng 380 - 690 tỉ đô la Mỹ, và tạo ra đến 1.7 triệu công ăn việc làm mới thường trực. Hơn nữa, vì nhập khẩu năng lượng chiếm đến trên phân nữa hơn 720 tỉ $ thâm thủng thương mãi Hoa Kỳ, giảm bớt nhập khẩu năng lượng đã giúp đưa tới cho Hoa Kỳ một cán cân thăng bằng thương mãi Hoa Kỳ thuận lợi hơn .
Bớt trông cậy vào nhập khẩu năng lượng không nên lầm lẫn với độc lập hoàn toàn năng lượng. Thế nhưng của trời cho năng lượng Hoa Kỳ này cũng sẽ giúp chặn đứng ý nghĩ Hoa Kỳ suy thóai. Hơn nữa, chấm dứt phụ thuộc Hoa Kỳ vào các nguồn cung cấp năng lượng ngòai nước và trên các quốc gia Hoa Kỳ thường có liên hệ trêu tức, sẽ cho không Hoa Kỳ một mức tự do lớn hơn, để tiếp tục đại chiến lược của mình . Nhưng Hoa Kỳ sẽ duy trì mạnh mẽ các mối liên kết với các thị trường năng lựợng tòan cầu hóa. Chẳng hạn, bất cứ một gián đọan bi kịch tính nào của cung cấp dầu lữa tòan cầu, cũng sẽ ảnh hưởng đến giá cả ở các trạm xăng Hoa Kỳ và làm tăng trưởng trật đường rầy. Cho nên Hoa Thịnh Đốn sẽ phải duy trì một quyền lợi bảo tồn ổn định các thị trường quốc tế. Không đâu đúng như thế cho bằng Trung Đông , nơi các quyền lợi sống còn Hoa Kỳ ngăn chặn khủng bố chống lại lan tràn hạt nhân và đề xướng an ninh vùng, hầu bảo vệ đồng minh tỉ như Israel ( nước Do Thái ) và bảo đảm dòng chảy năng lượng, sẽ tiếp diễn lâu ngày. Hoa Kỳ cũng cần phải cảnh sát của chung tòan cầu, tỉ như các đường lằn biển - sea lane nơi thương mãi năng lượng và các hàng hóa khác trôi chảy.
Nhưng thật tế này ít được hiểu biết đích đáng. Các nhà làm chánh sách Hoa Kỳ cần khởi sự giải thích cho cử tọa trong nước lẫn ngòai nước là dù cho cảnh quan năng lượng đang thay đổi , , các quyền lợi quốc gia Hoa Kỳ không thay đổi gì cả. Dầu lữa và khí dầu mới tìm thấy sẽ không khiến cho Hoa thịnh Đốn phải tháo bỏ ra khỏi thế giới. Chắc chắn là Hoa Kỳ sẽ vẫn còn là quốc gia uy vũ nhất hành tinh. Nhưng Hoa Kỳ sẽ không bao gìờ đủ khả năng tự mình làm ốc đảo riêng mình cho những cú sốc của nền kinh tế tòan cầu và cũng sẽ dính líu sâu đậm ở ngòai nước . Thông điệp này đòi hỏi nhấn mạnh đặc biệt đến Trung Đông, khi mà Hoa thịnh Đốn rời khỏi A Phú Hãn - Afghanistan, I Rắc và tuyên bố đóng trụ hướng về Á Châu. Nhắc lại là chuck Hagel bộ trưởng quốc phòng Hoa Kỳ cuối tháng 3 năm 2014 cho biết là Hoa Kỳ hiện có 330 000 nhân viên dàn trải ở Á Châu - Thái Bình Dương, 180 tàu chiến và trên 2000 phi cơ và đó là lực lượng chỉ huy chiến đấu Hoa Kỳ lớn nhất trên thế giới.
Các nhà làm chánh sách Hoa Kỳ cũng cần phải bảo đảm là họ bảo vệ các nguồn giàu có năng lượng quốc gia. Ngay dù cho các kẻ chơi trò lảnh vực tư nhân đã thúc đẩy gần hết mọi tiên tiến tháo lỏng phát triễn rầm rộ, thành công của họ tùy thuộc vào môi trường hổ trợ pháp lý và điều hòa. Các nhà lảnh đạo ở mức bang hay liên bang sẽ phải làm ra cân bằng đứng đắn giữa, một mặt là giải đáp những lo toan hợp pháp trên môi trường và các hiểm nguy khác liên quan đến fracking và mặt khác là bảo đảm lợi ích kinh tế của sản xuất .
Tương tự như thế, các lảnh đạo lảnh vực năng lượng Hoa Kỳ phải hành động cùng các chức quyền công cọng thiết lập những tiêu chuẩn trong suốt, bảo vệ môi sinh và an tòan, có cơ giúp xây dựng lòng tin cậy công cọng và giải đáp những hiểm nguy phát triễn các tài nguyên diệp thạch. Và Hoa Kỳ trên tổng diện, cũng phải cập nhật và nới rộng hạ tầng cơ sở năng lượng, hầu thu lượm hoàn tòan những phát triễn không qui ước dầu lữa và khí dầu, một biến đổi đòi hỏi đầu tư đáng kể xây cất và sửa đổi các ống dẫn dầu, đường xá, xà lan và các trạm ga cuối xuất khẩu.
Ngọai giao dầu lữa và khí dầu
Ngòai việc nâng đở nền kinh tế Hoa Kỳ, phát triễn rầm rộ năng lượng hứa hẹn sẽ mài nhọn các dụng cụ nghệ thuật lảnh đạo nhà nước Hoa Kỳ. Khi cần thực thi các trừng phạt kinh tế , một cung cấp đa dạng có nhiều ưu điểm khác biệt. Chẳng hạn , không thể nào đặt nằm tại chỗ những hạn chế chưa bao giờ có về xuất khẩu dầu lữa Iran, nếu không có tăng gia cung cấp Bắc Mỹ! Khác với các trừng phạt Iran, Iraq, Libya và Xu Đăng quá khứ gần đây, trừng phạt đặt ra vào lúc thặng dư dầu lữa tràn trề tòan cầu, trừng phạt hiện tại cho Iran đã đựợc đặt ra khi thị trường dầu lữa đang khan hiếm và giá dầu cao. Muốn được các quốc gia khác hổ trợ, khi họ ngại ngùng buộc phải thi hành những biện pháp cứng rắn cho Iran, đòi hỏi Hoa Thịnh Đốn phải làm ra một ca - trường hợp khả tín là đẩy dầu lữa Iran ra khỏi thị trường quốc tế , sẽ không gây ra một tăng giá đỉnh nhọn. Các trừng phạt Quốc hội Hoa Kỳ thông qua tháng 12 năm 2011, ra điều kiện là phải có vài gay gắt trên quyết tâm của chánh quyền là phải có đủ dầu lữa trên thị trường tòan cầu, khi đòi hỏi các quốc gia khác phải giảm bớt nhập khẩu .
Trong lúc điều khỏan này cho Tòa Nhà Trắng một khước từ hửu hiệu, Nhà Trắng không bao giờ dùng đến, nhờ Hoa Kỳ sản xuất dầu nhẹ dính chặc luôn luôn tăng, bù chì cho hơn một triệu thùng một ngày dầu lữa Iran trừng phạt buộc rời khỏi thị trường. Dầu lữa Hoa Kỳ cho phép Hoa Thịnh Đốn an ủi, làm dịu bớt lo sợ các chánh phủ khác về một tăng đỉnh nhọn giá dầu và như thế có được hổ trợ quốc tế cho các trừng phạt thẳng thừng và đích xác. Những biện pháp này đã gây tai hại chánh yếu cho nền kinh tế Iran, giúp đẩy Iran ra khỏi bàn thương thảo. Nếu không có những cung cấp Hoa Kỳ mới, các trừng phạt có lẽ sẽ không bao giờ được chấp thuận cả.
Tái sinh năng lượng cũng cung cấp cho các nhà đàm phán thương mãi Hoa Kỳ, một đòn bẩy mới mẽ, khi các quốc gia khác cạnh tranh nhau đường vào LNG Hoa Kỳ. Hoa Thịnh Đốn hiện đang đàm phán với hai cuộc thương thảo thương mãi đa phương chánh: Chung Sức Thương mãi và Đầu tư Xuyên Đại Tây Dương ( cùng 28 quốc gia của Hiệp Hội Âu Châu ) và Chung sức Xuyên Thái Bình Dương ( cùng 11 quốc gia, Á Châu - Thái Bình Dương và Mỹ Châu ). Khi nói đến xuất khẩu LNG, luật Hoa Kỳ cho phép chấp thuận tự động giấy phép xây cất các trạm ga cuối, có ý định chở khí dầu đến các quốc gia đã ký kết thỏa thuận thương mãi tự do với Hoa thịnh Đốn. Đơn nạp cho các trạm ga cuối LNG có mục đích đưa khí dầu đến nơi khác, ngược lại, phải qua một tiến trình duyệt xét, qui định là thương mãi này phải đúng theo quyền lợi quốc gia Hoa Kỳ. Đối với nhiều quốc gia ở Á Châu và Âu Châu muốn có thêm nhập khẩu khí dầu thiên nhiên pha trộn năng lượng, có được vai vế thương mãi đặc biệt này sẽ có thêm giá trị. Thật thế, khích lệ tỏ ra khẩn thiết thuyết phục Nhật Bổn, hiện đang đói khát khí dầu sau tai ương Fukushima, đã làm hư hỏng tòan diện hạ tầng cơ sở điện hạt nhân, gia nhập bàn thảo về Chung Sức Xuyên Thái Bình Dương.
Chuyễn đổi năng lượng toàn cầu cũng giúp Hoa Thịnh Đốn một phương cách mới cũng cố các liên minh mình. Nhiều quốc gia nay hy vọng theo chân lảnh đạo Hoa Kỳ và khởi sự khai thác các tài nguyên khí dầu và dầu không qui ước nước mình, và chánh phủ Hoa Kỳ đã bắt đầu hội nhập kinh nghiệm năng lượng Hoa Kỳ vào ngành ngoại giao. Hai dự án bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Chương trình Lôi Cuốn Kỷ thuật Khí dầu Không qui Ước và Nhiệm vụ Năng lượng cùng Sáng kiến Dung lượng, đã đem các kỷ thuât chuyên môn khắp chánh phủ để giúp cho các quốc gia khác xây đắp các công nghệ dầu lữa và khí dầu của họ ( cho đến nay là các nước nhỏ nhược tiểu ).
Chính phủ Hoa Kỳ phải nới rộng những cố gắng sơ khởi này và nối kết chúng vào một chiến lược liên minh rộng lớn hơn bằng cách hổ trợ các quốc gia như Ba Lan và Ukraine, khi các nước này hành động hầu lợi dụng các dự trữ nội địa dầu đá phiến. Sản xuất mới ở hai quốc gia này và các quốc gia khác không những sẽ làm giảm bớt hiểm nguy xung đột trên tài nguyên hiếm hoi mà còn giúp các quốc gia sản xuất và tiêu thụ thêm năng lượng thân thiện khí hậu, khỏi hy sinh tăng trưởng kinh tế họ đang cần. Hoa Thịnh Đốn phải hành động giúp họ hiểu biết những chánh sách đặc biệt giúp phát triễn rầm rộ xảy ra trên đất đai Hoa Kỳ và nếu được đón mời , cống hiến khuyến cáo cách nào tạo ra các môi trường tương tự .
Hòa kỳ cũng còn phải bắt đầu sử dụng những tài nguyên năng lượng mới ngăn ngừa các đồng minh khỏi bị các nhà cung cấp ít thân thiện hơn bắt nạt. Khi bộ Năng Lượng Hoa Kỳ duyệt xét các đơn nạp xin môn bài xuất khẩu LNG và định gía các hệ luận an ninh cho quốc gia mình, bộ phải xét xem nhưng dự án đề nghị có hổ trơ,các đồng minh Hoa Kỳ không , một di động có thể khuyến khích các công ty năng lượng Hoa Kỳ xuất khẩu đến các quốc gia này , giúp họ chống cự lại các áp lực từ Nga hay quốc gia nào khác . Chánh phủ Hoa Kỳ và các chung sức cũng phải hổ trợ các hội nghị bàn thảo thường xuyên tụ hợp các chuyên viên năng lượng tư nhân với nhau và các nhà đầu tư, giúp các quốc gia khác phát triễn những tài nguyên đá phiến của mình . Dù những đối thọai nới rông công cọng - tư nhân này sẽ không có ngay thành quả tăng gia sản xuất - ngay cả ở những môi trường thuận lợi nhất, phát triễn cần nhiều năm- tuy nhiên cũng sẽ được xem là tượng trưng công cọng của tinh thần đòan kết Hoa Kỳ .
‘ Theo một tỉnh mạch tương tự, Chánh phủ Hoa Kỳ cũng phải sử dụng chuyên môn mình về năng lượng không qui ước để cam kết trựctiếp với các chánh phủ ngọai quốc, đặc biệt là Bắc Bình. Hòa Kỳ chia sẽ nhiều quyền lợi đa dạng với Trung Quốc. Cả hai nước là những nhà tiêu thụ năng lượng khối lớn. Cqả hai đều muốn có một nền kinh tế tòan cầu ổn định và tăng trưởng , tùy thuộc vào dòng chảy năng lượng tin cây được giá cả phải chăng. Cả hai mong muốn tối thiểu hóa thay đổi khí hậu. Và cả hai muốn đa dạng hóa các cung cấp năng lượng của mình.
Những chồng chất quyền lợi như thế giữa hai quốc gia chóp bu tiêu thụ năng lượng trên thế giới tạo ra nhiều phòng rộng chỗ cho hợp tác. Tháng 12 năm 2013, Hoa Kỳ và Trung Quốc tái xác định những quyền lợi đôi bên chia sẽ “ trên thị trường bảo đảm và năng lượng đầy đủ “ và bàn cải hợp tác để phát triễn các tài nguyên năng lượng Trung Quốc gồm luôn cả khí dầu đá phiến. Các công ty Trung Quốc đã đầu tư hàng tỉ phát triễn dầu khí đá phiến trong nước và ở Hoa Kỳ. Nhưng Hoa thịnh Đốn và Bắc Bình phải gia tốc tiến bộ ở tuyến chiến này bằng cách mở rộng Đối thọai Chiến lược và Kinh tế Hoa Kỳ - Trung Quốc để bao gồm dầu nhẹ dính chặc và cam kết tài nguyên thật sự cho phát triễn kỷ thuật chung hầu xuất khẩu khí dầu và dầu lữa đá phiến theo một phương cách hửu hiệu và trách nhiệm môi trường. Nếu các mối liên hệ Hoa Kỳ - Trung Quốc cải thiện, cả đôi bên sẽ hành động cùng nhau với các nhà tiêu thụ năng lượng khác, tăng thêm an ninh năng lượng tòan cầu, chẳng hạn, bằng cách mở rộng thêm các họat động chống hải tặc quanh Mũi Cáp Horn Phi Châu.
Cuối cùng, cách mạng khí đá phiến có thể bổ sung lảnh đạo Hoa Kỳ về thay đổi khí hậu. Khí dầu thiên nhiên phát thải ít hơn than đá 40 % và nay Hoa Kỳ đã thỏa mãn các mục tiêu khí hậu, không phải là đã nhờ các quyết định táo bạo ở Hoa Thịnh Đốn mà đơng giản vì kinh tế học khí dầu đã chứng tỏ là thuận lợi hơn than đá nhiều. Khuynh hướng xuống dốc phát thải carbon Hoa Kỳ, đã giúp Hoa Kỳ nhiều khả tín hơn ở các thảo luận về khí hậu khác trước đây. Chánh phủ Hoa Kỳ phải lợi dụng điều này để bảo đảm một lập trường uy vũ hơn về phía những quốc gia đã kháng cự lại ngăn chặn phát thải ở nước họ.
Lan tràn kỷ thuật đá phiến khắp thế giới sẽ là một tin tức tốt đẹp cho khí hậu theo nhiều cách khác. Vài nhà môi trường lo sợ rằng thay thế rộng rải than đá bằng khí dầu, dù giảm bớt phát thải trong ngắn hạn, cũng sẽ làm giảm bớt áp lực cho những cải cách sâu rộng hơn. Nhưng dù cho chuyễn đổi từ than đá đến khí dầu vẫn không giải quyết được vấn đề phát thải khí nhà kiếng đi nữa, nó có thể kéo dài thời gian cho thế hệ kế tiếp các sáng kiến kỷ thuật và chánh sách đủ thời giờ tiến tới và những sáng kiến này có thể cắt bớt phát thải một cách đáng kinh ngạc .
Năng lượng và Ảnh hưởng
Cách mạng năng lượng Bắc Mỹ đã hiện diện. Nó to lớn và sẽ không những tăng thêm quan trọng, khi Hoa Kỳ đến gần kề trở thành một quốc gia xuất khẩu giá thực năng lượng, đâu đó vào năm 2020. Thành qủa chuyễn đổi cung cấp năng lượng tòan cầu này, sẽ đem lại lợi nhuận cho các quốc gia tiêu thụ và làm xói mòn sức mạnh các quốc gia sản xuất truyền thống . Nhưng phát triễn này cũng có thể cắt bớt vai trò truyền thống OPEC, là nhà xử lý các giá cả năng lượng tòan cầu, có lẽ tương đương với giá cả năng lượng trụt dốc. Rối loạn này rồi sau đó, có thể thành thác đổ xuyên qua mọi quốc gia tùy thuộc vào hydrocarbons cho tài chánh công cọng của nước mình. Ngay cả khi không có trụt dốc thê thảm giá cả như vậy, dòng chảy tòan cầu của năng lượng cũng sẽ tiếp tục biến đổi, và theo đó biến đổi các liên hệ kinh tế và địa lý chánh trị.
Hoa Kỳ, trong lúc đó,sẽ nằm vào vị trí độc nhất hưởng lợi từ chuyễn đổi và nắm lấy những cơ hội mới. Phát triễn rầm rộ năng lượng sẽ bồi thêm nhiên liệu cho Hoa Kỳ tái sinh kinh tế và việc giảm bớt Hoa Kỳ phụ thuộc vào nhập khẩu năng lượng sẽ giúp Hoa Kỳ vài biện pháp tự do và ảnh hưởng ngọai giao. Phát triễn năng lượng rầm rộ sẽ không giải quyết mọi thách thức đối diện các nhà làm chánh sách Hoa Kỳ: Hoa Thịnh Đốn vẫn còn phải xử lý hậu quả của hơn một chục năm chiến tranh ở A Phú Hãn và I Rắc, tính phá của chính ngay trên thuế khóa mình, siêu bè phái dọc sông Potomac, xói mòn lòng tin cậy của nhiều đồng minh sau các tiết lộ Hoa Kỳ kiểm soát họ và việc Trung Quốc vươn dậy. Phát triễn rầm rộ uy vũ của sản xuất dầu lữa và dầu khí Hoa Kỳ, phối hợp các nguồn gốc lâu dài quân sự, kinh tế và sức mạnh văn hóa, chắc chắn sẽ sinh cường lảnh đạo tòan cầu của Hoa Kỳ những năm tới, nếu Hoa Kỳ bảo vệ nổi những nguồn sức mạnh mới mẽ này ở quốc nội và lợi dụng ưu điểm có những cơ hội mới để bảo vệ các quyền lợi lâu ngày của mình ở ngọai quốc.
( Cácphâ`n về Hoa kỳ là phần lớn chiếu theo Robert D. Blackwill, Chánh chuyên viên Chánh sách Ngọai Giao Hoa Kỳ thời Henry Kissinger, và của Meghan O’ Sullivan, Giáo sư Thủ tục Quốc tế Trường đại học Kennedy về Chánh Phủ, Viện Đại học Harvard)
( Irvine, Nam Ca li ngày 31 tháng 3 năm 2014 )
|