Lạm bàn phát triễn tỉnh Bình Thuận - Phan Thiết
GS Tôn Thất Trình
Mở Quảng Nam , đặt Trấn Ninh
Đề phòng muôn dặm uy linh ai bì.
Kỳ công núi có Đá Bia,
Thi văn các tập Thần Khuê còn truyền.
( Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca . Núi Đá Bia hay Thạch Bi Sơn – Tuy Hòa là nơi Vua Lê Thánh Tông khắc bia, năm 1471 , lấy đất Chiêm
từ đó ra Bắc lập ra thừa tuyên Quảng Nam, chia đất Chiêm còn lại thành ba tiểu vương quốc là Hòa Anh ( Phú Yên -Khánh Hòa ), Nam Bàn ( Gia Lai, Kon tum, Đắc Lắc ), Chiêm Thành ( Ninh Thuận ,Bình Thuận ).
…Tôi lang thang tìm đến chốn Lầu Trăng
Lầu Ông Hòang , người thiên hạ đồn vang
Nơi đã khóc, đã yêu thương da diết
Ôi trời ơi !là Phan Thiết! Phan Thiết!
Mà tang thương còn lại mảnh trăng rơi,
Ta đến nơi nàng ấy vắng lâu rồi
Nghĩa là chết từ muôn trăng thế kỷ ...
Hỡi Phan Thiết ! Phan Thiết !
Mi là nơi ta chôn hận ngàn thu
Mi là nơi ta sầu muộn ngất ngư …
( Hàn Mặc Tử, bài thơ Xuân Như Ý- 1938 ? nhớ đến tình yêu đẹp đẻ với Mộng Cầm các năm 1935 - 1936, những đêm trăng sánh bước, khi thì ở Mũi Né, khi thì ở Lầu Ông Hòang)
( Chú thích : Lầu Ông Hòang là Lầu Bá tước De Montpensier, một phong cảnh rất đẹp của Phan Thiết , Mũi Né là nơi nghĩ mát tiện nghi mới đầu tiên ở vùng Phan Thiết )
Vị trí
Bình Thuận, tỉnh lỵ là Phan Thiết, năm 2002 là một tỉnh cũng như tỉnh Ninh Thuận – Phan Rang, thuộc về miền Đông Nam Bộ - South East trong phân chia ra 8 miền đất nước ngày nay ( Đồng bằng sông Hồng , Đông Bắc , Tây Bắc , Bắc Trung Bộ , Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long ) . Không còn thuộc Duyên Hải Nam Trung Bộ như Phú Yên, Khánh Hòa . Hay không còn thuộc Trung Kỳ , một trong ba Kỳ ( hai Kỳ kia là Bắc Kỳ và Nam Kỳ ) thời Pháp thuộc nữa . Vị trí tỉnh lỵ Phan Thiết là 10056’ vĩ tuyến Bắc và 108006’ kinh tuyến Đông. Bắc Bình Thuận giáp Lâm Đồng, Đông Bắc giáp Ninh Thuận và Tây giáp Đồng Nai và Vũng Tàu --Bà Rịa. Diện tích là 7992km2 ( 3 086 dặm Anh vuông ) là tỉnh lớn nhất miền Đông Nam Bộ. Nhưng chỉ là tỉnh đứng hàng thứ 10 nước nhà về diện tích, sau Nghệ An, Gia Lai ( Pleiku ), Thanh Hóa, Quảng Nam , Lâm Đồng, Quảng Bình , Kontum , Lạng Sơn, Lào Cai, xấp xĩ Hà Giang ( 7884 km2 theo thống kê năm 2002 ). Hiện nay phân chia hành chánh ra làm 2 thị xã là tỉnh lỵ Phan Thiết và thị xã ( thị trấn ) La Gi ( trên sông Dinh gần Hàm Tân) cùng 8 huyện là Bắc Bình ( Chợ Lâu gần Phan Rí ), Đức Linh ( gần Định Quán ), Hàm Thuận Bắc ( Ma Lâm ), Hàm Thuận Nam ( Thuận Nam ), Hàm Tân , Phú Quý ( huyện đảo) , Tánh Linh ( nguyên thuộc tỉnh Bình Tuy thời Đệ Nhất Cộng Hòa ? ) và Tuy Phong ( Liên Hương ). Dân số năm 2007 là 1 170 700 người, gia tăng trung bình mỗi năm là 1. 35 % từ năm 2000 đến năm 2007. Như vậy, năm 2014, Bình Thuận có thể đã trên 1600 000 người . Mức đô thị hóa Bình Thuận ở các thị xã và thị trấn cũng tăng mau, từ 30.4 % năm 2000 đến 35.5% năm 2007. Mức đô thị hóa này cao nhất ở các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ, chỉ sau tỉnh Khánh Hoà - Nha Trang. Tỉ trọng dân số trên 1000 người /km2 ở Phan Thiết và ít hơn 100 người / km2 ở các huyện như Bắc Bình, Hàm Tân, Hàm Thuận Nam và Tánh Linh . Ngoài đa số là dân Kinh, Bình Thuận còn nhiều tộc dân thiểu số là Chăm- Chiêm Thành, Hoa, Cờ Ho và Raglai. Vài cọng đồng Chăm sinh sống ở vùng bờ biển phía Đông Bình Thuận . Theo Lê Thành Khôi ( Việt Nam Văn Hóa và Môi Trường , xuất vản ở Ca Li , Hoa Kỳ năm 2012 ) , dân Chàm ( Chàm – Chiêm ) hiện nay ở Việt Nam còn chừng 133 000 nguời , sống thành những vạt lẽ tẽ ở Phan Rang , Phan Rí, Tây Ninh và Châu Đốc . Trên phương diện tôn giáo dân Chăm Bình Thuận phần lớn thuộc nhóm Kafir – Bà La Môn, theo chế độ mẩu hệ ; Chàm Ba Ni các tỉnh Trung Bộ theo Hồi Giáo. Trong khi Chàm Nam Bộ vùng Châu Đốc, Tây Ninh lại theo chế độ phụ hệ, liên quan mật thiết với dân Hồi Giáo Mã Lai và Ả Rập, nhiều người hành hương đến La Mecque, thủ đô hành hương Hồi Giáo thế giới. Các tộc dân khác như Cơ Ho và Raglai phần lớn sống rải rác ở các vùng núi non, dọc theo biên giới hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Thuận. Dân Cơ Ho có chừng hơn 70 000 nguời thuộc họ Môn – Khmer va hai tộc dân Ra Glai ( Ga Glai ) và Chu Ru chừng 68 000 người thuộc họ Nam Đảo như dân Chăm . Tộc dân Chu Ru, chừng 8000 người, ở miền núi non còn giữ vững tính chất văn hóa Chăm, theo ngôn ngữ và giữ gìn các kho tàng châu báu, truyền thống các vua –lảnh chúa xưa cũ , biết dùng cày, cày ruộng nước và tưới tiêu bằng một hệ thống kinh mương hửu hiệu.
Suôi dòng lịch sữ
Hình thành tỉnh Bình Thuận
Phần lớn tỉnh Bình Thuận ngày nay thuộc tiểu vương quốc- quận vương Pandarunga, mà trung tâm chính trị là Phan Rang, thuộc tỉnh Ninh Thuận kế cận. Đây là quận vương độc lập cuối cùng sau khi thành Đồ Bàn- Chà Bàn –Vijaya, Bình Định thất thủ năm 147 1. Năm 1653 , vua Chiêm là Bà Thấm ( Po Nraup trị vì 16 52 – 53) quấy nhiễu Phú Yên , chúa Hiền Nguyễn Phước Tần ( 1648 – 1687 ) sai Cai cơ – Đại tá ? Hùng Lộc ( không có họ, có lẽ là người gốc Chiêm Thành nhập Việt tịch ) vượt Đèo Cả, đánh Bà Thấm bỏ chạy , tiến chiếm đến sông Phan Rang ( sông Krong Pha -sông Đa Nhim ? ), cắt đất từ sông Phan Rang trở vào thuộc Chiêm Thành và từ Phan Rang trở ra thuộc Đại Việt. Năm 1692 vua Chiêm là Bà Tranh ( Po Saut, trị vì các năm 1659 - 1693 ) tấn công phủ Diên Ninh ( nay là Diên Khánh – Khánh Hòa ), chúa Minh Nguyễn Phúc Chu ( cầm quyền 1691- 1725 ) , sai Nguyễn Hửu Cảnh ( hay Kính ) cầm quân đánh Chiêm Thành, năm 1693 bắt được Bà Tranh và một số viên thuộc đưa về giam ở núi Ngọc Trản ( Hòn Chén), Huế. Chúa Minh lấy phần đất còn lại của Chiêm Thành lập thành trấn Thuận Thành . Năm 1697 , Chúa Minh lấy nốt đất Phan Rí , Phan Rang của Chiêm Thành làm ra các huyện Yên Phúc ( An Phước ) và Hòa Đa, đổi trấn Thuận Thành đặt thành phủ Bình Thuận, đổi thành phủ Bình Thuận . Chúa Minh bổ nhiệm Tả trà viên Kế Bà Tử, em ruột của Bà Tranh, làm khám lý, các con của Bà Ân hòang gia Chiêm Thành làm đô đốc, đề lĩnh và cai phủ cùng lo giữ Thuận Thành, nhưng yêu cầu các viên quan này phải ăn bận theo y phục người Việt ( theo Đại Nam Chính Biên Liệt Truyện, tập 2 xuất bản ở Huế năm 1993 ). Bình Thuận bị sáp nhập vào Việt Nam, trong khi Ninh Thuận tương đối còn độc lập phần nào, mãi cho đến năm 1832 thời vua Minh Mạng, vua thứ hai nhà Nguyễn Phước tộc. Năm 1726, thời chúa Ninh Nguyễn Phước Trú, phủ Bình Thuận thuộc xứ Quảng Nam (gồm 7 phủ ; Thăng Hoa , Điện Bàn, Qui Ninh, Phú Yên , Bình Khương, Diên Ninh và Bình Thuận ) có 12 thuộc, thuộc nào trên 500 người trở lên thì có Cai Thuộc cai trị, 450 người trở xuống thì đặt một ký thuộc … Năm 1744, thời chúa Vỏ Nguyễn Phước Khóat, trên phương diện binh bị, Bình Thuận là một dinh ( dinh quân sự là một quân đòan ) trong số 11 dinh xứ Đàng Trong ( Chánh dinh và Cát dinh Phú Xuân, dinh Lưu Đồn, dinh Quảng Bình , dinh Bố Chinh, dinh Quảng Nam, dinh Bình Khương, dinh Bình Thuận ,dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn và dinh Long Hồ) và một trấn Hà Tiên đặc biệt có một tổng binh quản trị. Năm 1779 , Đại Nguyên Súy ( Sóai ) Nguyễn Phước Ánh tổ chức lại việc cai trị đất Gia Định, chia vạch địa giới 3 dinh Trấn Biên (tỉnh Biên Hòa sau này ), Phiên Trấn ( tỉnh Gia Định và Định Tường sau này ) và Long Hồ ( hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long sau này ). Dinh Phiên Trấn có một huyện là Tân Bình gồm 4 tổng là Bình Dương, Tân Long , Phước Lộc và Bình Thuận.Và khi Kế Bà Tử chết, Cai cơ là Tá quản hạt Trấn Thuận Thành. Năm 1782( ? ), Tây Sơn vào đánh, Cai cơ Tá đầu hàng Tây Sơn , đem bửu khí truyền quốc của Chiêm Thành nạp cho Tây Sơn. Năm 1788, Nguyễn Vương khắc phục Gia Định. Cai cơ Tá vẫn giữ Thuận Thành theo Tây Sơn chống cự lại. Năm 1790, Chưởng Tiền Quân Lê Văn Quân đánh Bình Thuận, có con cố Phiên Vương là Môn Lai Phò Tử ( tên Việt là Nguyễn văn Chiêu ) đem quân theo đánh Tây Sơn . Sau khi Tây Sơn lui rồi, Nguyễn văn Chiêu làm Khâm sai Chưởng Cơ quản hạt người Chiêm trấn Thuận Thành. Tháng 6 năm 1792 , Nguyễn Vương đem thủy bộ binh Bình Thuận, Bình Khương đánh Thị Nại – Qui Nhơn. Năm 1793, binh thuyền Nguyễn Vương lần lượt tiến đánh các cửa biển Phan Rang, Nha Trang, Hòn Khói, Xuân Đài. Tướng sĩ Tây Sơn đầu hàng rất nhiều. Lấy được phủ Diên Khánh, phủ Bình Khương , đồn Phan Rý phủ Bình Thuận, Nguyễn Vương đặt các chức quan ( Lưu Thủ, Cai Bộ , Ký Lục ) cai trị hai dinh Bình Khương và Bình Thuận. Thời vua Minh Mạng, Bình Thuận chánh thức thành tỉnh và Phan Thiết thuộc huyện Hàm Thuận. Năm 1836, chủ tỉnh Bình Thuận, cũng như Ninh Thuận là một quản đạo chức vụ có phần nhỏ hơn chủ tỉnh là tuần vũ đôi chút, và lớn hơn tri phủ. Sau đó, quản đạo Bình Thuận được tôn lên làm Tuần Vũ thời Pháp thuộc, trong khi Ninh Thuận vẫn giữ chức Quản đạo . Trước năm 1976 , Bình Thuận nhỏ hơn ngày nay, vì các vùng phía Tây thuộc tỉnh riêng biệt là Bình Tuy. Năm 1976, Bình Thuận và Ninh Thuận nhập làm một, thành tỉnh Thuận Hải . Nhưng năm 1999, lại tách ra hai thành tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận , trong thời gian này tỉnh Bình Tuy là một thành phần đất đai tỉnh Bình Thuận.
Lịch sử thị xã Phan Thiết , tỉnh lỵ tỉnh Bình Thuận
Thị xã Phan Thiết gồm 18 phường và xã , trong đó 14 là xã đô thị: Đức Thắng , Đức Nghĩa, Đức Long , Phú Hải , Phú Thủy, Phú Trinh, Phú Tài, Mũi Né, Thanh Hải, Hàm Tiến, Xuân An, Bình Hưng, Hưng Long và Lạc Đạo và 4 xã phụ đô thị -nông thôn : Tiến Lợi , Tiến Thành , Thiện Nghiệp và Phong Nẫm. Dân số năm 2004 là 205 333 người, có lẽ sẽ đến 400 000 nguời năm 2015. Phan Thiết không phải là tên đơn thuần Việt - Kinh. Trước khi vùng này bị các chúa Nguyễn chiếm lấy vào thế kỷ thứ 17 , Chiêm Thành gọi tên là “ Ha Mu Lithit”. Ha Mu tiếng Chăm là thôn làng và Lithit là gần biển. Tên Phan Thiết dần dần thành hình với các phát triễn định cư dân Kinh. Kể từ khi dân Kinh đổi tên thị trấn Chăm là Pandarunga thành Phan Rang và một định cư khác lấy tên là Phan Rí , dân Kinh lấy từ Phan đặt vào đầu hai chữ và rút gọn từ Lithit thành Phan Thiết. Dân Kinh đã biến đổi các từ Chăm thành từ giọng Việt hơn , chẳng hạn gọi từ Pandarunga hay Mang Lang thành Phan Rang , Mang lý thành Phan Rí , Hamu Lithit thành Phan Thiết. Cả 3 nơi này trước đây gọi là “ Tam Phan”. Tên gọi “ Hòang tử” Chăm cai quản quân sự vùng này vào thế kỷ thứ 15 là Po Thi, em của công nương Po Inu Sah và là con trai của Quận Vương- Vua Par Ra Cham Chanh hay Trà Chanh ( ? . ). Tên thành này là Đồn- Camp Po Thi . Dân Việt đọc trại ra là Phan Thiết .
Năm 1825 đời vua Minh Mạng , Bình Thuận được chánh thức công nhận là một tỉnh Việt Nam, và một phần Phan Thiết nhập vào huyện Hàm Thuận và tên Hàm Thuận thời vua Tự Đức năm 1854 lại đổi tên thành Tuy Lý . Năm thứ 17 đời vua Minh Mạng, 1836, Quản đạo “ phủ” Bình Thuận duyệt lại ranh giới phân chia 307 xã và thôn xóm Bình Thuận và qui định biên giới Phan Thiết . Phía hửu bờ sông Cà Ty ngày nay gồm Đức Thắng , Nhuận Đức và Lạc Đảo . Phía tả ngạn là Long Bình , Minh Long. Mãi cho đến gần cuối thế kỷ thứ 19, Phan Thiết vẫn chưa được nhận chánh thức là một đơn vị hành chánh tỉnh Bình Thuận. Năm 1898 , thời vua Thành Thái , tỉnh lỵ tỉnh Bình Thuận dời về xã Phú Tài , một xã đô thị Phan Thiết ngày nay. Ngày 20 tháng 10 năm 1898 , Vua Thành Thái ký sắc lệnh nâng Phan Thiết thành thị xã tỉnh lỵ tỉnh Bình Thuận, cùng lúc với việc thiết lập các thị xã Huế, Hội An, Qui Nhơn, Thanh Hóa và Vinh.
Địa hình, đất đai
Đa số ranh giới với Lâm Đồng và Ninh Thuận khá núi non, trong lúc phần tỉnh Bình Thuận còn lại tương đối băng phẳng. Tuy nhiên vẫn có nhiều đồi núi cao hơn 200m dọc theo bờ biển . Đỉnh cao nhất tỉnh là Núi Bnomsrlung phía tây Bắc huyện Tánh Linh ranh giới Lâm Đồng cao 1548m , Núi Sa Man cao 1138m, Núi Sruyn cao 1307 m gần Đông Kho - sông Là Ngà , Núi Cà Nong cao 1279m gần giữa tỉnh, giữa Ma Lâm ( Hàm Thuận Bắc) và Đông Kho. Các núi cao hơn 500- 800m từ Bắc xuống Nam Bình Thuận là Núi Bà 756m , Núi La 625m , Núi Lốp 730m , Núi Thuận Nam 568m , Núi Bé 871m … Đảo Phú Qúy là quần đảo lớn nhất tỉnh, nằm vào phía Đông Nam Phan Thiết, ngòai đảo chánh Phú Qúy là Cù lao Thu, còn có các tiểu đảo là Hòn Đá Cao , Hòn Thanh , Hòn Đồ ( Đỏ ? ). Trong nhóm quần đảo Phú Qúy, tưởng cũng nên nhắc đến năm 1923, bổng tự nhiên nổi lên một hòn đảo cao 30m . Đó là tro bụi dung nham của một núi lữa ngầm phun lên. Mấy tháng sau, đảo bị sóng biển đánh tan . Năm 1929 , một số nhà địa chất Pháp ra ra tại chỗ nghiên cứu thì không thấy còn dấu vết gì trên mặt nước cả . Tình trạng này cũng xảy ra ở quần đảo Thổ Chu, Biển Tây Việt Nam ; có đảo Tro , không được vẽ trên hải đồ, nổi lên rồi biến mất. Ngòai Phú Quý, còn phải kể ra các cù lao Biển Đông khác là Cù Lao Cau ở gần Tuy Phong, Hòn Lao ở ngòai khơi Mũi Né, Hòn Bà ở giữa Kê Gà và La Gi ( Hàm Tân ). Cả hai đồng bằng Phan Rí và Phan Thiết tổng cọng rộng khoảng 148 000 ha ( 1480km2), thuộc Tam Phan , đều có đồi cát trắng và đồi cát đỏ. Tuổi địa chất đồi cát đỏ xưa hơn đồi cát trắng. Cát đỏ thuờng xuất hiện từ Phan Rí Cửa ( huyện Bắc Bình – Chợ Lâu) đến Phan Thiết và từ Phan Thiết đến Mũi Kê Gà. Khác với bờ biển từ Qui Nhơn đến Mũi Dinh Tên Pháp là cap Padaran, phía Nam Phan Rang, nơi bờ biển cao, nhiều vách đá rặng Trường Sơn lan ra sát biển tạo ra nhiều vũng –vịnh kín đáo như Vũng Rô, Cam Ranh v.v…, từ Mũi Dinh đến Vũng Tàu , bờ biển bằng phẳng nhiều độn cát cao như độn cát đỏ và cao gần tỉnh lỵ Phan Thiết. Khí hậu khô khan nên lưu lượng sông cũng nhỏ bé, sông ngòi chở ít bùn cát nên không có đầm phá. Thềm lục địa Việt Nam từ từ mở rộng từ Phan Thiết xuống Cà Mau, Biển Tây . Nhắc lại , theo Thái công Tụng - 2005, theo Công ước của Liên hiệp Quốc về luật biển 1982 diện tích vùng đặc quyền kinh tế từ bờ ra đến 200 hải lý ( một hải lý là 1852 km ) là 722 354 km2 , kể từ đường cơ sở thẳng nối các đảo như đảo Cồn Cỏ ( Quảng Trị ), Đảo Lý Sơn ( Quảng Ngãi ) , Hòn Hải ( ngòai khơi đảo Phú Quý, Hòn Khoai ( Cà Mau ) và đảo Thổ Chu ( Tây Nam đảo Phú Quốc – Kiên Giang )… Lảnh hải Việt Nam là vùng biển sát bờ lảnh thổ thuộc quyền kiểm sóat của nước nhà , chiều rộng là 12 hải lý kể từ đường cơ sở. Thềm lục địa nước nhà bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngòai lảnh hải Việt Nam cho đến bờ ngòai rìa lục địa hoặc đến cách bờ rìa đường cơ sở 200 hải lý. Thềm lục địa Viêt Nam rộng ở Bắc Việt và biển từ Phan Thiết tới Cà Mau, nhưng lại nhỏ ở miền Trung từ Quảng Bình đến Ninh Thuận – Phan Rang. Tại khu vực này, tuyến đẳng sâu 200m chỉ cách bờ biển có 30 km, ra xa bờ là vực sâu quá 3000 m. Đáng lưu ý là quần đảo Trường Sa, nơi gần nhất cách Vịnh Cam Ranh chừng 250 hải lý. Vùng biển Trường Sa rộng từ 160 000 km2đến 180 000 km2, hơn nữa diện tích đất liền nước nhà. Độ sâu biển chung quanh Trường Sa là 1000 – 2000 m hay sâu hơn nữa. Tại Trường Sa cũng như Hoàng Sa, có những đảo đã hình thành, những đảo đã nổi giữa đảo còn có một đầm nước lặng và những cụm đảo bao gồm một hòn đảo đã hình thành, có nhiều bải chung quanh đang dần dần nổi lên và những đảo còn nằm sâu dưới nước , gọi là đảo ngập nước . Đảo lớn nhất Trường Sa là đảo Ba Đình , chỉ rộng 0.6 km2( 60 ha ). Bải Thuyền Chài vừa mới nổi lên mặt nước, dài 32 km, chổ rộng nhất chừng 5- 6 km. Đảo Đá Chữ Thập Trung Quốc chiếm tháng 1 năm 1988, dài khỏang 25 km và nơi rộng nhất đến 5- 6km, nơi đây Trung Quốc đã đánh đắm 2 tàu Việt Nam và giết chết 70 thủy quân nước nhà. Năm 1978, Trung Quốc đã chiếm 6 đảo vùng Trường Sa của Việt Nam , cũng như 4 năm trước đó đã chiếm Hòang Sa của Việt Nam Cọng Hòa. Nói chung các đảo san hô Hòang Sa, Trường Sa chỉ cao hơn mặt nước 6-7 m và đây là một nét đặc trưng của tất cả các đảo san hô thế giới.
Đất đai Bình Thuận ( phần lớn chiếu theo Thái công Tụng- 2005 ) gồm:
*Nhóm đất cát biển , phân biệt ra thành :
- đất cồn cát trắng vàng - Luvic Arenosols chạy dọc theo bờ biển , tuy có khi sâu vào bên trong cát cao đến 200 – 300m , có nơi còn di động . Màu đất trắng nơi không cây cối , nhưng cũng có chỗ màu vàng lợt . Cần phát triễn cây phi lao –Casuarina equisetifolia hay các giống lòai Casuarina sp. và các lòai Opuntia , Pandanus sp.v.v… Nam Mỹ ( ? ), chống nạn cát bay và cung cấp cũi gỗ cho dân ven biển hoặc các kỷ thuật mới cố định cát tương tự miền Sahara đang thử nghiệm mới đây .
- đất cồn cát đỏ - Rhodic Arenosols , tương đối phì nhiêu hơn cát vàng
- đất cát biển - Haplic Arenosols ở địa hình bằng phù sa bồi lắng có quá trình lấn biểm tham gia. Trong đất nhiều vùng còn vỏ sò, vỏ hến
- đất cát nội đồng, một lọai Ground – water Podzol, mực nước ngầm gần mặt đất, ở độ sâu 4- 50cm có một lớp than bùn hoặc gley màu đen, dày 30 – 40cm, ngập nước theo mùa, dễ úng nước…
* nhóm đất phù sa, chia ra :
- nhóm đất gley, úng nước quanh năm giàu hửu cơ, phản ứng đất rất chua, ít khi gặp ở Bình Thuận
- nhóm đất nâu vùng bán khô hạn, nhiều ở đồng bằng Tam Phan . Vì khí hậu khô nên pH cao, đất ít bị rữa trôi và độ no, bảo hòa badờ, baz tương đối cao
* nhóm đất miền đồi núi….
Thủy văn , khí hậu
Bình Thuận có nhiều sông ngòi bắt nguồn ngay tại tỉnh nhà hay trên cao nguyên tỉnh Lâm Đồng láng giềng. Đa số chảy ra Biển Đông các sông lớn đáng kể ra là Sông Lũy ở phía đông tỉnh , Sông Cái ở phía giữa tỉnh và Sông Dinh phía tây tỉnh . Sông Là Ngà chảy qua 4 huyện ở phía Tây Bắc tỉnh và là một nhánh sông chánh của sông Đồng Nai như chúng ta đã biết là sông dài nhất, chảy hoàn tòan trong địa phận nước nhà. Có lẽ không nên quên Sông Lòng Sông chảy qua huyện Tuy Phong ; Sông Mao một nhánh bên trái sông Lũy, Sông Mường Mán chảy qua Phan Thiết. Hai hồ lớn tỉnh là Hồ Sông Quán ở trung tâm tỉnh cách phía bắc Phan Thiết chừng 30km và Hồ Biển Lạc ( nguyên là hồ Tánh Linh – Bình Tuy ? ) vùng Tây Bắc tỉnh .
Bình Thuận là một trong vài tỉnh khô hạn nhất nước. Đa số lảnh thổ tỉnh chỉ nhận ít hơn 800 mm nước mưa mỗi năm. Các tháng đặc biệt khô hạn là từ tháng 11 đến tháng 4, vũ lượng dưới 200 mm. Vũ lượng các đồng bằng từ Mũi Dinh đến Phan Thiết hàng năm nhỏ hơn 600mm và số ngày mưa ít hơn 80 .
( xin xem tiếp P2)
|