... Bình Dương với huyện Tân Long
Đặt làm thành phố chỗ trong chỗ ngòai …
( Kim Gia Định Phong Cảnh Vịnh của Tập Phước Hai Đức, Chợ Lớn )
… Bến Ông - Lãnh màn mưa bao phủ,
Ghe thương hồ ủ rủ dưới kia,
Ghe ơi, vài bửa ghe về,
Nhắn người dưới ruộng, cô Qùi còn không ?
… Cà phê nóng lên hơi nghi ngút,
Lò than hồng lách tách nổ ran.
Nghe người kể chuyện xóm làng,
Cõi lòng ấm dịu, bàng hòang, bâng khuâng ..
( trích bài “ Thơ Ba Mén “ của Bình Nguyên Lộc 1914 - 1987. Bình Nguyên Lộc viết về vùng Đồng Nai, và Sơn Nam viết về vùng rừng Rạch Giá - Cà Mau là hai nhà văn, nhà thơ ít ai để ý, tiêu biểu cho miền Nam ) .
Vị trí
Tỉnh Bình Dương nằm ở 10051’46”- 11030’ vĩ tuyến Bắc và 106020’- 106058’ kinh tuyến Đông. Bắc giáp tỉnh Bình Phước, Nam giáp Sài Gòn-TP HCM, Đông giáp tỉnh Đồng Nai, Tây giáp Tây Ninh và Sài Gòn . Giao thông đườn bộ và đường sông rất quan trọng nối liền các vùng trong và ngoài tỉnh . Đường quốc lộ 13 chạydài từ TP HCM xuyên dọc tỉnh từ Nam lên Bắc : Lái Thiêu ( nay là Thuận An ), Thủ Đầu Một , Bến Cát ( ( Mỹ Phước ), Bầu Long, Chơn Thành, Tân Khai, An Lộc (nguyên là tỉnh lỵ tỉnh Bình Long cũ), Lộc Ninh, rồi qua Căm Bốt đến tận biên giới nước nay với Thái Lan. Ai cũng biết tầm quan trọng phát triễn kinh tế và quân sự theo đường số 13. Quốc lộ số 14, từ tỉnh Tây Ninh chạy ngang qua hồ DầuTiếng ( phần phía Đông thuộc tỉnh Bình Dương ? ) huyện Dầu Tiếng , thuộc Bình Dương, đến huyện Chơn Thành , thị trấn Đồng Xòai ( Đồng Phú, ) và huyện Bù Đăng( Đức PhonG , cả ba địa danh này thuộc Bình Phước, rồi vào Tây Nguyên: Đắc Nông, Đắc Lắc, Gia Lai- Pleiku …Đường 14 là đường chiến lược cho Việt Nam phát huy mạnh mẽ , thời chiến cũng như thời bình. Các khúc đường liên tỉnh: quốc lộ 1A trong tỉnh nhà từ Thủ Đầu Một đến huyện Phước Long ( tỉnh Bình Phước); quốc lộ 13 từ huyện Chơn Thành đến huyện Đồng Phú ( Bình Phước ), huyện Dầu Tiếng ( Bình Dương); quốc lộ 16 từ thị trấn Tân Uyên ( Uyên Hưng ) đến Phú Giáo ( Phước Vĩnh ) tỉnh lộ 14 từ huyện Bến Cát đến huyện Dầu Tiếng … Đường sông chuyên chở thuộc hệ thống 3 sông chánh tỉnh Bình Dương là sông Sài Gòn, Sông Bé và sông Đồng Nai, dẫn tới các cảng sông biển miền Nam, giúp trao đổi mau lẹ hàng hóa cùng các tỉnh ĐBSCL.
Dân số
Diện tích Bình Dương là 2694.4 km2 hay 1 040 dặm Anh vuông. Nay trên phương diện hành chánh, ngòai thị xã tỉnh lỵ Thủ Đầu Một, gồm có 6 huyện là Bến Cát, Dầu Tiếng, Dĩ An, Phú Giáo, Tân Uyên và Thuận An. Năm 1990, dân số chỉ mới là 542 500; năm 2000 là 773 799; năm 2001 là 768 100. Dân số năm 2010 là 1 691 400 người, và cuối tháng 12 năm 2011 là 1 727154. Tỉnh hy vọng là dân số tỉnh sẽ đạt 2,5 triệu năm 2020 và lên tới 3.5 triệu vào năm 2030.
Bình Dương suôi dòng thời gian
Nguyên thủy Bình Dương là nơi hoang vu rừng rú , một ít người các tộc dân địa phương là Xtieng, Cho (Châu, Chu ) Ro ( Ry ), Mạ ( Che Mạ ? ), M’Nông và Khmer Krom, cư trú. Các tộc dân ít người này đều thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer thuộc họ Nam Á( theo Mạc Đăng viện dân tộc học- 1995 ). Theo nhà sử học B . Bourotte, trướcnăm 1945 có lúc làm hiệu trưởng trườngTrung học Khải Định - Huế ở Sách Essai d’ histoire des populations montagnards du Sud Indochinois và trong nhiều đọan tiểu thuyết của Bình Nguyên Lộc thì ở khỏang giữa nước Chiêm Thành và nước Chân Lạp tức là giữa đất Trung Bộ và đất miền Đông Nam Bộ có một “ tiểu quốc Mọi” là “ nước Che Mạ” , gồm nhiều nhánh tộc dân Chu Ru, Mạ, Cơ ho , Xtiêng, Lạt …, vì thích tự do, không chịu thống phục chế độ chánh trị Phù Nam, rời bỏ đồng bằng hạ lưu sông Đồng Nai và sông Cửu Long tới sinh sống ở vùng hoang vu này . Sau khi Phù Nam bị Chân Lạp cai trị, họ thần thuộc trên danh nghĩa Chân Lạp, nhưng vẫn tự chủ.Thế lực Che Mạ lan rộng sang Tây Nam đến lưu vực sông Là Ngà và phía Bắc lên tận các cao nguyên Di Linh và Lang Bian ( Lâm Viên ). Khi các chúa Nguyễn đã chiếm hết đất Chiêm Thành, tiến sâu vào Chân Lạp thì Che Mạ không tồn tại được nữa. Nhắc lại là từ năm 1621, nhờ con gái công nương Ngọc Vạn gả làm hòang hậu Miên là Sam Đát ở Nam Vang xin hộ ( ? ), chúa Sải Nguyễn Phước Nguyên, lập đồn quân và sở thuế, chánh thức vào khai phá vùng Mỗi Xuy ( Bà Rịa - Vũng Tàu), bảo đảm an ninh cho lưu dân người Việt. Năm 1679, chúa Hiền Nguyễn Phước Tần can thiệp với vua Miên Thu Vương cho nhóm di thần nhà Minh vào khai thác đất Đồng Nai và Mỹ Tho. Nhóm khai thác đất Đồng Nai là Trần Thượng Xuyên tập trung ở Cù Lao phố - Biên Hòa , mở mang phố xá thu hút nhiều thương nhân nước ngòai đến buôn bán ngày một thịnh vượng. Đất Đồng Nai, nguyên là nê địa không ai thèm quan tâm , nay giàu có, phồn thịnh làm Xiêm (Thái Lan ), Lào thèm thuồng, Chân Lạp tiếc rẽ và thế lực người Hoa đang bành trướng trong nội địa ( theo Lưu Vĩnh Khương- 2006 .) Nhưng đến thế kỷ thứ17, thì dân Việt lên đây định cư từ miền Đông Mô Xòai - Bà Rịa tiến về miền Tây, kể luôn cả phía Tây là tỉnh Tây Ninh và phía Bắc là tỉnh Bình Phước ngày nay. Đa số là dân nghèo muốn có ruộng đất cho mình, khai khẩn làm ăn mong mau thóat khỏi đói khổ ở quê nhà. Để bảo vệ lưu dân người Việt ,ổn định việc cai trị lâu dài , năm1698, chúa Minh Nguyễn Phước Chu sai Thống Suất Nguyễn Hửu Cảnh ( Kính ) dòng dõi Nguyễn Trải vào Nam kinh lược . Vùng đất mới này theo theo Đại Nam Thực Lực Tiền Biên rộng nghìn dặm được 4 vạn hộ . Nguyễn hửu Cảnh bắt đầu đặt phủ Gia Định, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai đặt làm huyện Phước Long; chiêu mộ dân siêu dạt từ Bố Chánh - Quảng Bình trở Vào Nam cho đến ở cho đông; thiết lập thôn xã, phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ thuế tô dụng, làm sổ định điền… Qua hành động kinh lược này, Nguyễn Hửu Cảnh đã chánh thức phân định biên giới, định danh lảnh thổ, đặt bộ máy cầm quyền, thống kê dân số, xác lập và tuyên bố chủ quyền quốc gia trên vùng đất mới. Điểm tế nhị là xác nhận thành phần dân cư, đặc biệt là đồng hóa người Hoa đời nhà Thanh ở Trấn Biên -Biên Hòa thành dân xã Thanh Hà , và người Hoa đời nhà Minh ở Phiên Trấn - Gia Định thành dân xã Minh Hương. Đối xử bình đẳng dân chiêu mộ đến vùng đất mới, dân Chân Lạp hết sức hoan nghênh, nên sau khi ông tiến lên Nam Vang năm 1699 ,nhiều đợt dân Miên di dời về miền Hậu Giang lập nghiệp, nhiều “ sóc Miên” ở Sóc Trăng, Trà Vinh được thành lập vào thời điểm này. Từ đây, vùng đất mới không còn là đất vô chủ nữa, nhập vào lảnh thổ Việt Nam - Đàng Trong của chúa Nguyễn. Cư dân không còn là lưu dân hay người Minh Hương, người Khmer lưu tán nữa, thảy là chính dân Việt Nam . Nay tộc dân đông nhất Bình Dương là Kinh - Việt, rồi đến Hoa ( những người Đài Loan, Trung Quốc , Singapore … sau hai thế hệ vẫn chưa chịu đồng hóa nhận quốc tịch Việt Nam ), một số ít Khmer Krom, mới đây là Tày và Xtiêng xưa cũ. Tỉnh nhà có đến cả thảy đến 15 tộc dân.
Năm 1779, Đại nguyên súy Nguyễn Phước Ánh tổ chức lại việc cai trị đất Gia Định, chia vạch địa giới 3 dinh Trấn Biên ( Biên Hòa sau này ), Phiên Trấn (tỉnh Gia Định và Định Tường sau này, và dinh Long Hồ ( hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long sau này). Dinh Trấn Biên chỉ có một huyện là Phước Long gồm 4 tổng: Tân Chính, Bình An, Long Thành và Phước An. Phiên Trấn cũng chỉ có một huyện là Tân Bình, gồm 4 tổng: Bình Dương, Tân Long, Phước Lộc và Bình Thuận. Từ Bình Dương xuất hiện từ đây, nhưng lúc đó chỉ là một tổng một xã lớn hay nhiều xã của Phiên Trấn. Từ Bình Dương cũng xuất hiện ở một trong 3 tổng: Bình An, Bình Dương và Tân An của châu duy nhất là Định Viễn thuộc dinh Long Hồ Năm 1803, dinh Long Hồ đổi tên là dinh Hoằng Trấn. N ăm 1804, lại đổi tên thành dinh Vĩnh Trấn. Năm 1808, đổi Vĩnh Trấn thành trấn Vĩnh Thanh, châu Định Viễn trở thành phủ Định Viễn. Năm 1832, vua Minh Mạng đổi tên trấn Vĩnh Thanh thành trấn Vĩnh Long. Sau khi tổng trấn Gia Định Thành Lê Văn Duyệt mất, vua Minh Mạng đổi trấn làm tỉnh và Miền Nam có 6 tỉnh, “ Nam Kỳ Lục Tỉnh” : Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Thời Pháp thuộc, Pháp chia Nam Kỳ thành 21 tỉnh, trong số này có tỉnh Thủ Dầu Một nay là tỉnh lỵ Bình Dương, nhưng thời Pháp thuộc lại là tỉnh lỵ tỉnh Thủ Dầu Một. Hình như tên này thóat thai từ truyền thuyết là cây số một - Thủ là đứng đầu hay là phong thủ giữ gìn an ninh , Dầu là cây dầu một lòai đại mộc cao đến 45m thân rất to, thời xưa lấy dầu “ Dầu Con Rái , Dầu Chai ”, tên khoa học Dipterocarpus alatus , mọc nhiều ở rừng Nha Trang - Miền Đông Nam Bộ ( hay Nam Phần ); nơi quân lính đứng gác trên cây to lớn, giữ an ninh, bình an cho huyện có từ Bình ? . Từ năm 1954 đến năm 1975 , dưới thời Cộng Hòa, tỉnh Thủ Dầu Một có tên là tỉnh Bình Dương, tỉnh lỵ Thủ Dầu Một thành thị xã Phú Cường .
Đáng tiếc là từ năm 1945 đến 1975, là chiến tranh tương tàn khốc liệt ở vị trí Tam Giác Sắt- IronTriangle, đã ngăn cản phát triễn tỉnh Bình Dương . Tam giác Sắt nằm giữa sông Sài Gòn về phía Tây và sông Thị Tính về phía Đông và cạnh quốc lộ số 13, cách Sài Gòn chừng 40 km ( 15 dặm Anh ). Chóp Nam của Tam giác Sắt cách tỉnh lỵ Phú Cường - Thủ Dầu Một 11km ( 7 dặm Anh ), chiếm chừng 310 km2 ( 130 dặm Anh vuông ) của tỉnh Bình Dương ngày nay . Đây là Chiến khu D và Dương Minh Châu họat động từ thời Việt Minh các năm 1946 đến 1954 thời Chiến Tranh ĐôngPháp - French War và tiếp tục khốc liệt hơn nữa từ năm 1962- 63 ( ? ) suốt thời Chiến Tranh Việt Nam- ( Hoa Kỳ )Việt Nam War. Tháng tư năm 1975 , tướng miền Bắc Văn Tiến Dũng , các lảnh đạo bộ Chính trị miền Bắc là Phạm Hùng ( tuy sinh quán ở Vĩnh Long ) và Lê Đức Thọ, cùng tướng Trần Văn Trà, chỉ huy quân sự Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, họp nhau ở Tam Giác Sắt bàn kế họach tổng tấn công Cọng Hòa miền Nam. Thời Chiến tranh Đông Pháp, từ năm 1945 đến năm 1954, Việt Minh thiết lập một mạng lưới đồn binh và đường hầm ( địa đạo ) suốt vùng Tam Giác để chống trả lưc lượng quân sự Pháp mạnh hơn nhiều. Thật sự các địa đạo - đường hầm đã bắt đầu từ thập niên 1880 để chống đối viễn chinh Pháp xâm lăng. Mạng lưới ngầm giúp cho các chiến binh “ Cọng Sản “ biến mất . Điều này còn rất quan trọng thời Vichy, thời tòan quyền Decoux khi các lực lượng Pháp và Nhật chiếm cứ Việt Nam, nhưng cả hai lực lượng Pháp và Nhật lúc đó không hề hay biết gì cả. Từ năm 1962- 63, đường hầm được nới sâu rộng, đào thêm nhiều, hầu làm căn cứ an tòan cho quân đội “ Giải Phóng” tấn công quân sự chánh quyền Ngô Đình Diệm và sau đó các chánh quyền Cọng Hòa miền Nam, được sự ủng hộ của Hoa kỳ. Ở cao điểm nhất, đường hầm dài đến 48 000 km ( 30 dặm Anh ) suốt từ miền Bắc ( có lẽ từ Vinh -Nghệ An )đến miền Nam Việt Nam. Ở Tam Giác Sắt, đường hầm dài hàng trăm dặm Anh, đặc biệt tập trung ở thị trấn Củ Chi nay thuộc TPHCM - Sài Gòn, Phía Tây Bắc Hóc Môn, gần ranh giới tỉnh Long An và TP HCM. Vì Củ Chi quá gần Sài Gòn nên quân đội Hoa Kỳ và quân đội Cọng Hòa phải tấn công mạnh mẽ , giải tỏa đe dọa Sài Gòn từ vùng này , vào mùa thu 1966 - 1967 với 3 chiến dịch là Operation Attleboro , Operation Cedar Falls, và Operation Junction City. Chiến dịch Thác Vương Tùng -Operation Cedar Falls mạnh nhất gồm 16 000 quân Mỹ và 14 000 quân Cọng Hòa Việt Nam. Chiến dịch kéo dài 19 ngày, có 72 Mỹ và 720 Việt Cọng chết ( theo tài liệu Hoa Kỳ của Lawrence Greenberg “ Jungle Eaters and Rome Plow” , 12 tháng 5 năm 2000). Dù rừng đã được thuốc khai quang “ Bạch Hóa”, tấn công uy vũ với phi cơ phóng pháo B-52, máy cày cày sâu cở lớn Rome plow, cố gắng phá hủy hệ thống hầm bằng chất nổ, làm ngập hầm và các “ chú chuột hầm - tunnell rats” , nghĩa là lính Mỹ huấn luyện đặc biệt chui xuống hầm chỉ có ánh sáng đèn pin và súng lục tìm địch…, Hoa Kỳ vẫn thất bại, không phá hủy hoàn được hệ thống căn cứ Việt Cọng , xây dựng cũng cố thêm trên hai chục năm .
Từ năm 1976 đến năm 1996, các tỉnh thời Đệ Nhất Cọng Hòa là Bình Long , Bình Dương, Phước Thành , Phước Long nhập lại thành tỉnh Sông Bé, tỉnh lỵ là Phú Cường . Tháng giêng năm 1997, tỉnh Sông Bé chia ra hai thành Bình Phước và Bình Dương và Thủ đầu Một là tỉnh lỵ Bình Dương. Tỉnh lỵ Bình Phước là thị trấn Đồng Xòai.
Địa hình, Đất đai , Khí hậu, Sông ngòi
Địa hình Bình Dương tương đối bằng phẳng, hơi nghiêng từ Bắc xuống Nam, cao độ 10- 15 m trên mặt nước biển. Có thể phân biệt thành những dạng khác nhau: núi thấp như núi Châu Thới ( hình như nay đã san bằng để thiết lập xa lộ Sài Gòn - Biên Hòa các thập niên 1960- 70 ) ở huyện Dĩ An, núi Cậu (còn gọi là núi Lấp Vò, núi Ông? ), cao 281m ở huyện Dầu Tiếng và vài đồi cũng thấp. Các ảnh hưởng thiên nhiên cũng tạo ra nhiều dạng khác nhau, gồm các vùng xói mòn, các vùng tích tụ nơi trầm tích các vật liệu xói mòn các dòng sông suối đem tới, các vùng vừa xói mòn ,vừa tích tụ. Vì vũ lượng và các dòng chảy sông suối, cùng ảnh hưởng gió, nhiệt độ, khí hậu, hiện tượng xói mòn và sụp đổ do trọng lực địa chất qua mấy triệu năm trời gây nên.
Đất đai Bình Dương chia ra 3 nhóm chánh :
- Đất xám trên phù sa cổ Haplic Acrisol, chiếm 200 000 ha, phân phối ở các huyện Dầu Tiếng, Bến Cát, Thuận An và thị xã Thủ Dầu Một. Nhóm đất này thích hợp thâm canh, đặc biệt làm các vườn cao su, cây công nghệ và cây ăn trái
- Đất vàng- đỏ-nâu Ferralic Acrisols cũng trên phù sa cổ , chiếm 35 206 ha trên các sườn đồi thấp tại các huyện Tân Uyên, Phú Giáo và thị xã Thủ Dầu Một, Thuận An và một vài nơi dọc theo đường quốc lộ 13. Thích hợp trồng rau đậu, cũng như cây trái và các cây hạch qủa - nuts: mít , hột điều…
- Đất phù sa xám gley- hóa Gray Fluvisol (? ) , nơi giao tiếp các sườn đồi dốc, phía Bắc Tân Uyên, Phú Giáo, Bến Cát, Dầu Tiếng, Thuận An và Dĩ An. Sét mùn bắng phẳng chiếm 7900 ha rải rác ở các trũng thấp dọc sông suối; đất đai có khi kiềm nhưng thường là acid chua vì chứa phèn sulphát nhiều sắt và nhom. Nếu bồi dưỡng sửa chửa tính chất, đất có thể trồng lúa, rau đậu, cây ăn trái v.v…
Khí hậu Bình Dương cũng như khí hậu miền Đông nóng nực, mưa nhiều, ẩm độ cao. Đây là khí hậu gió mùa nhiệt đới, phân biệt rỏ hai mùa: mùa khô hạn và mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 cho đến cuốt tháng 10. Đầu mùa mưa, mưa đều và ngắn, nhưng nhiều mưa giông to. Trong khi các tháng 7- 8 - 9 mưa dầm dề, có khi suốt 1-2 ngày đêm không dứt. Bình Dương ít khi có bảo tố, chỉ có giông tố địa phương. Nhiệt độ trung bình Bình Dương hàng năm là 260C - 170C; nhiệt độ cao nhất là 39,30C, và nhiệt độ thấp nhất ban đêm là 160C - 170C. Mùa khô ẩm độ trung bình hàng năm là 76%- 80 %, cao nhất vào tháng chín 86% và thấp nhất vào tháng hai 66%. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1800 - 2000mm. Nhưng ở Sở Sao ( ? ) trên đường cắt ngang xuyên tỉnh, lượng mưa thường đến 2113.3 mm.
Sông Ngòi. Lưu lượng các sông suối Bình Dương thay đổi theo mùa. Tỉnh nhà có 3 sông chánh : sông Đồng Nai, sông Bé và sông Sài Gòn. Sông Đồng Nai là sông dài nhất chảy trong địa phận Việt Nam như chúng ta đã biết và cũng là sông lớn nhất miền Đông nước nhà. Bắt nguồn trên cao nguyên Lâm Viên tỉnh Lâm Đồng, dài đến 635 km, nhưng trong địa phận Bình Dương chảy qua huyện Tân Uyên, rất thuận lợi tưới tiêu, chuyễn vận và phát triễn ngư nghiệp. Sông Sài Gòn dài 256 km, bắt nguồn ở các núi non Lộc Ninh tỉnh Bình Phước . Đọan từ Lái Thiêu ( Thuận An ) đến Dầu Tiếng dài 143 km và hơi dốc, rất tiện cho chuyên chở, nông nghiệp và nguồn cung cấp cá. Thượng nguồn sông Sài Gòn hẹp ( 20m ) và quanh co uốn khúc, dần dần rộng thêm, từ Dầu Tiếng tới thị xã Thủ Dầu Một, nơi đây rộng 200m. Một chi lưu sông Sài Gòn là sông Thị Tính, bắt nguồn từ đồi Cẩm Xe huyện Bình Long tỉnh Bình Phước. Sông Thị Tính chảy qua Bến Cát ( Mỹ Phước ), rồi nhập vào sông Sài Gòn ở Đầm Ông Cố (? ). Sông Thị Tính đem tới phù sa cho đồng bằng dọc theo huyện Bến Cát , thị xã Thủ Dầu Một, thị trấn Lái Thiêu ( Thuận An ) và các đồng ruộng dọc sông Đồng Nai làm thành ruộng cao năng và vườn tượt phong phú. Sông Bé dài 360km có ba sông bắt nguồn từ vùng núi tỉnh Đắc Lắc là sông Đak R’ Lap, Đak Giun và ĐaK Húyt. Hạ nguồn sông Bé chảy vào địa phận Bình Dương, dài 80km, nhưng khó đi lại hay chuyễn vận vì bờ dựng đứng, nhiều đá và thác nước.
Phần II : Phát triễn Bình Dương - Thủ Dầu Một
Nông Nghiệp
Thời Pháp thuộc, Pháp đã đưa dân Bắc Kỳ vào làm cu ly tạo các đường 13 và 14 và mộ phu cạo mũ cao su BắcKỳ vào các tỉnh Bình Dương ,Bình Phước, Tây Ninh ,Đồng Nai ...,. Cao su các đồn điền Michelin( Michelin là công ty Pháp làm vỏ ruột xe hơi ) của Pháp ở vùng Dầu Tiếng Bình Phước rất đặc thù , vì trồng trên “Đất Xám” thay vì trên “ Đất Đỏ ” , và kỷ thuật làm “đông đặc” mũ tại các đồn điền Michelin cũng không dùng lọai acid thông thường chế tạo các tấm lá cao su xông khói thương mãi. Ngay cả trung tâm Khảo cứu Cao su Lai Khê , trên đường 13, phía Bắc Bến Cát cũng trên “ Đất Xám”bổ sung cho khảo cứu ở Đồn điền Đất Đỏ ( Compangnie des Plantations des Terres Rouges ) trên “Đất Đỏ” Hớn Quản - Lộc Ninh . Trung tâm Lai Khê đã điêu tàn trong “Chiến Tranh Việt Nam”. Năm 2010, thành phần nông nghiệp Bình Dương chỉ còn 4.4 % GDP, trong khi xây cất - công nghệ chiếm 63 % và dịch vụ đạt 32.6 %. Năm 2011 , lảnh vực nông nghiệp còn giảm thêm so với năm 2010 , vì bịnh dịch long móng lỡ mồm , cúm chim A/H 1N1.. nhiều bệnh cây cối mùa màng xuất hiện - tái xuất, ảnh hưởng đến sản xuất phẩm gía và giá cả nông phẩm, tuy Hiệp Hội Nông Dân tỉnh, nhờ sự ủng hộ của khảo cứu nông nghiệp, khuyến nông đã ổn định phần nào sản xuất nông nghiệp Bình Dương. Về cây hàng niên, diện tích là 27 720 ha, 4.2 % thấp hơn năm trước. Lúa chiếm 10 456 ha ( năm 1995, diện tích lúa cả năm là 30.100 ha, đã rớt xuống năm 2000 chỉ còn 24.900 ha ); diện tích các cây cho tinh bột khác là 7 073 ha, rau - đậu 6078 ha, diện tích cây hàng niên xen kẻ cây lâu năm là 4523 ha . Diện tích cây lâu năm là 135 928 ha, giảm đi 1.7 % so với năm 2010 , trong số này diện tích trồng cao su chiếm 127 104 ha, cây ăn trái 4856 ha và cây hột điều ( đào lộn hột) - cashew trees 3 361 ha. Tưởng cũng nên biết là đến năm 1954, tổng diện tích cao su cả nước Việt Nam là chừng 70 - 80 000 ha tiểu điền và đồn điền . Năng xuất trung bình cũng cao nhất ở các nước có trồng cao su. Việt Nam lúc đó đứng hàng thứ ba thế giới về sản lượng mũ cao su, sau Inđônêxia và Mã Lai Á, trên Thái Lan đôi chút . Nhưng nay Thái Lan đã trồng trên mấy triệu ha cao su cao năng, đứng hàng thứ nhất thế giới, về diện tích cũng như sản lượng mũ . Năm 1960- 62, Đệ Nhất Cộng Hòa phát triễn chương trình Việt Nam dự liệu trồng 500 000 - 1 triệu ha cao su đại điền ( kiểu liên canh liên địa ) và tiểu điền tư nhân với các tinh dòng cao năng Hòa Lan tuyễn chọn ở Inđônexia thời Pháp thuộc du nhập, đã tỏ ra thích hợp phong thổ miền Nam Việt Nam và tiếp theo là các tinh dòng mới, du nhập từ Trung Tâm Khảo cứu Cao Su Kuala Lumpur - Mã Lai Á. Diện tích trồng giảm những năm gần đây, là vì chuyễn hướng nhiều lòai hoa màu hàng niên không hửu hiệu qua các vườn cây lâu năm và vì các khu vực đô thị, công nghệ và thương mãi bành trướng.
Trong các năm 1957 - 62 ( ? ), Việt Nam cố công nuôi bò sửa ở Bình Dương , thiết lập Trung Tâm Khảo cứu Bò Sửa ở Bến Cát , do Úc Viện Trợ. Trung tâm này cũng điêu tàn vì Chiến Tranh Việt Nam . Năm 2011, khắp tỉnh nhà ghi là còn 34 791 con trâu bò, giảm đi 2.2 % so với năm 2010. Nhưng heo tăng 8.5% lên số 417 939 con.Tổng số gia cầm là 2.89 triệu cũng tăng thêm 2.1%. Hầu chận đứng cúm chim A/H1N1 và dịch long móng lỡ mồm, Hiệp Hội Nông Dân tỉnh đã động viên nông dân chích ngừa và chích thuốc chủng giai đọan I và giai đọan II cho tòan thể trâu bò và heo. Nuôi trồng thủy sinh - aquaculture đạt 398 ha, tăng 4% so với năm 2010 , sản lượng là 6000 tấn, tăng thêm 10.4 %. Trị gíá nông nghiệp năm 2011 ước lượng là 2. 8 ngàn tỉ đồng ĐVN, tăng 4.2 % so với năm ngoái.
Nữa thế kỷ vừa qua, rừng Bình Dương đã giảm đi rỏ rệt vì Hoa kỳ dội bom và rải thuốc khai quang bạch hóa rừng,. đốn rừng cho địch quân khỏi còn nơi trốn núp, cố đẩy quân “ giải phóng” xa ra khỏi Tam Giác Sắt. Khai thác rừng bừa bải, sau khi chấm dứt chiến tranh, cũng làm cho rừng tỉnh giảm đi rất nhiều. Nhờ khí hậu nhiệt đới ẩm thấp và đất đai phì nhiêu, rừng cũ Bình Dương rất đa dạng, tạo ra một sinh thái giàu có. Rừng cũ được xử lý khoa học, trước đây rất rộng lớn . Cung cấp nhiều gỗ quí hiếm: gỗ cẩm lai như cẩm lai gỗ thượng hạng Dalbergia cultrata ( var fusca ), cẩm lai hay trắc Nam Bộ D. cochinchinensis cẩm lai bông D. olivieri, cẩm lai vú D. mammosa... nhiều lòai gỗ trắc: trắc Malabar Dalbergia malabarica, trắc Miến Điện D. burmanica, trắc trứng D. ovata , trắc Assam D. balansae ( var assami ), trắc mủi giáo hay bạt ong D. lanceolaria, gỏ đỏ, sao, cam xe, giáng hương v.v...
Dự án chủ trì phát triễn kinh tế xã hội Bình Dương nhắm đến năm 2020, trù liệu là lảnh vực Nông Lâm Ngư tỉnh năm 2010 chiếm 4.5% GDP, năm 2015 giảm xuống chỉ còn 3.4 % và năm 2020 là 2.3 % .
Mức đô thị hóa
Bìng Dương trù liệu tỉ xuất đô thị hóa- urbanization sẽ đạt 40 % năm 2010, 50% năm 2015 và 75 % năm 2020. Năm 2010, tỉnh nhà sẽ có 480 000 dân đô thị và năm 2020 sẽ tăng lên đến 1. 5 triệu. Bình Dương muốn trở thành TP- Đô Thị hạng I do Trung Ương Quản trị trực tiếp như Đà Nẳng , Cần Thơ . Nay ngay cả thị xã tỉnh lỵ Thủ Dầu Một , chỉ mới được xem là vệ tinh của TP Sài Gòn - HCM. Nhưng Bình Dương muốn nối kết không gian tỉnh mình với TP Sài Gòn - HCM và T P Biên Hòa thành một Đại Phố liên tục nước nhà của Miền Đông Việt Nam. Giữa năm 2013, Bình Dương chia ra làm 3 khu vực thiên nhiên: khu vực 1 trung tâm là vùng Thủ Dầu Một đã đô thị hóa , vùng đô thị mới Hòa Phú - Phú Tân , các vùng đô thị hóa Nam Bến Cát, Nam Tân Uyên; khu vực 2 gồm các vùng đô thị Thuận An và Dĩ An , khu vực 3 gồm 8 vùng đô thị vệ tinh là Thanh Tuyền, Dầu Tiếng, Minh Hòa, Long Hòa, Bầu Bàng, Phước Vĩnh Tân Thành và Thường Tân và ở phần phía Bắc gồm luôn cả các rừng, các vùng nông nghiệp và vòng đai xanh. Nhờ công nghệ hóa và tổ chức cận đại các danh lam thắng cảnh thu hút đầu tư, du khách. Trước tiên là phải tân tiến thêm hạ tầng cơ sở. Về chuyễn vận, sẽ phát triễn mạnh hệ thống đường bộ nối cùng các quốc lộ vùng đã cận đại hóa, các phi trường quốc tế và các cảng biển Thị Vãi - Vũng Tàu cũng như các hạ tầng cơ sở kỷ thuật khác. Tập trung trên các trục đường bộ từ Đại lộ Bình Dương đến cửa khẩu biên giới Hoa Lư, từ Đại lộ Bình Dương đến Đồng Xòai, từ đại lộ Bình Duơng đến Dầu Tiếng , xa lộ cao tốc -Express Way Mỹ Phước-Tân Văn ( TP Biên Hòa ). Đang hợp tác với Bộ Giao Thông - Vận Tải xây dựng các trục ngang : Vòng Đường- Ring Road số 3, Vòng Đường số 4, Đường Thường Tân- Tân Hưng- Hưng Hòa … Về đường sông, tỉnh tiếp tục cho đào vét các nhánh sông Sài Gòn, sông Đồng Nai và sông Thị Tính, cải thiện và xây dựng hệ thống cảng phụng sự chuyễn vận, du lịch và đời sống dân gian. Về điện nước Bình Dương đầu tư cải thiện hay xây dựng hầu thỏa mãn các họat động công nghệ chế tạo và sử dụng công cọng, đặc biệt ở các công viên công nghệ và các vùng đô thị trung tâm. Các năm 2006- 2010, tăng trưởng điện tỉnh nhà là 24%/năm, nhưng trù liệu sẽ giảm xuống chỉ còn 13 % /năm vào các năm 2011- 2015. Như cầu điện trong tỉnh là 6 700 GWh năm 2010 và 12 400 GWh năm 2015. Đến năm 2010,nước sạch là 247 000 m3/ngày và năm 2020 sẽ lên đến 462 000 m3/ngày. Bảo đảm điện , nước sạch năm 2010 cho 95- 97 % gia thất nông thôn và 100% năm 2020 . Về viễn thông phát triễn một hệ thống tòan diện tân tiến kiểu mẩu kỷ thuật số và tự động để thông tin vững chắc khắp tỉnh, nối kết với Vùng Kinh Tế Then Chốt Miền Nam . Số điện thọai dự liệu có phần khiêm tốn, sẽ là 42 cho 100 người năm 2010, là 50 năm 2015 và 60 năm 2020.
Danh lam thắng cảnh Bình Dương, Thủ Dầu Một
Bình Dương không tham vọng làm thành nơi du lịch, thu hút du khách nhất là ngọai kiều thăm viếng, mà chỉ mong ngọai kiều xem đây là nơi sinh sống,làm việc. Tuy vậy, Thủ Dầu Một cũng đã có khách sạn 5 sao The Mira Hotel gần BigC trên quốc lộ 13, có bửa ăn khách hành tự phục vụ búp phê - buffet mỗi sáng sớm và mỗi chiều tối ; khách sạn 4 sao Becamex Hotel , có búp phê Bác Bờ Qui - buffet BBQ ( Barbecue, thức ăn nấu nướng trên lữa ngòai trời ); nhiều khách sạn 3 sao như Lavender ở phường Chánh Nghĩa , Thắng Lợi , Hòang Yến ngòai cảnh quan đẹp đẽ còn có dịch vụ lịch thiệp, các món ăn ngon .v.v…. TP Thủ Dầu Một chỉ cách TP HCM 30km, phía trên bờ bên trái sông Sài Gòn. Dạo quanhThủ Dầu Một nên thuê tắc xi nổi tiếng như tắc xi màu xanh Mai Lĩnh , tắc xi màu trắng Vinasun , tắc xi Thắng lợi màu bạc và đỏ và từ Thủ Đầu Một đi các tỉnh miền Đông hay các huyện Bình Dương ( TP HCM , khu du lịch Suối Tiên- Lâm Đồng, Tân Văn - TP Biên Hòa, Mỹ Phước -Bến Cát, Cổng Xanh, Tân Bình- Tân Uyên ... ) thì lấy xe búyt rẽ tiền và tiện lợi ở trạm xe búyt đường 30/4 ở Thanh Nghĩa , TP Thủ Dầu Một.
Đáng xem nhất là Chùa Bà Thiên Hậu , nhất là lễ hội chùa này từ ngày 13 đến ngày rằm 15 tháng giêng âm lịch mỗi năm, ngày bà Thiên Hậu mất. Có lẽ nên nhắc lại các lễ hội lớn - festivals ở miền Nam Việt Nam ít được mô tả, ca ngợi như các lễ hội miền Bắc, lễ hội Chùa Hương ( Tích ) chẳng hạn. Đáng kể trước hết là lễ hội bà Chúa Xứ- Vía Bà tổ chức hàng năm từ đêm 23 đến ngày 27 tháng tư âm lịch, ở vùng núi Sam, cách thị xã Châu Đốc chừng 5km. Núi Sam là trung tâm nhiều di tích lịch sử khác của tỉnh An Giang: Chùa Bà Chúa Xứ, Chùa Phật Thầy Tây An, Chùa Hang, Lăng mộ Thọai Ngọc Hầu. Vào đêm 23 tháng 4, là lễ tắm rữa nước hương thơm và thay áo tượng Bà Chúa Xứ. Áo cũ xẻ ra trăm mảnh, phân phối cho người hành hương và khách thăm viếng thập phương. Miếng áo cũ đem lại điều lành, giữ gìn sức khỏe và đẩy xa ma quỉ. Nữa đêm 25 rạng ngày 26 là lễ nghi Tuê Yet Rite ( ? ) kính mừng Bà Chúa thăng thiên, có đám rước linh đình múa Rồng, đưa Kiệu Bà từ lăng Thọai Ngọc Hầu ca hát lễ, rồi gánh kiệu trở về đền thờ Bà Chúa. Vía Bà là một lễ hội thu hút nhiều người đến cầu nguyện cho quốc thái dân an, cho tương lai mình, đồng thời thưởng ngọan phong cảng thiên nhiên diễm lệ của tỉnh An Giang. Lễ Hội Dinh Cô ở bờ biễn Long Hải Bà Rịa - Vũng Tàu mỗi năm, cũng đón mời hàng ngàn du khách, ngòai thưởng thức hội hè vui vẽ, còn là cơ hội khấn cầu cho đời sống mình bình an . Cô đây là một cô gái trẻ muốn sống cô độc, nhưng bất thần bị rơi xuống biển và được dân đánh cá vớt lên chôn ở đồi Cổ Sơn, và làm miếu thờ Cô trên bải biển. Mỗi năm, dân đánh cá Long Hải tổ chức lễ hội Dinh Cô vào ba ngày 10- 11- 12 tháng hai âm lịch. Dân già mặc áo quần truyền thống nước nhà làm chủ lễ. Họ cầu nguyện cho được mùa cá, cây trồng sản xuất phong phú và đời sống an bình , Thuyền đánh cá, khi đang ở biển, được thắp sáng trưng, màu sắc rực rở. Lễ hội Miếu Thần Thắng Tam cũng ở Vũng Tàu, thật sự gồm 3 kiến trúc là Đền Miếu thờ thần Thắng Tam, Miếu thờ thần Bà Ngũ Hành, và Mộ thần Nam Hải . Theo truyền thuyết , Đền Miếu Thắng Tam thờ ba vị công thần thiết lập 3 làng Thắng : Phạm văn Định, Lê văn Lộc và Ngô văn Huyền. Lễ Hội tổ chức mỗi năm 4 ngày, từ ngày 17 đến ngày 20 tháng hai âm lịch, trùng vào đầu và cuối muà cá địa phương. Lễ nghi rất phức tạp, nhưng có múa sư tử và Hát bội. Lễ Hội Núi Bà Đen, còn có tên là Linh SơnThánh Mẩu. Núi Bà Đen là một núi đẹp đẽ ở giữa ĐBSCL ,cách thị xã Tây Ninh 11 km. Theo truyền thuyết, Bà Đen là một cô gái trẻ tuổi mộ đạo, con của một sỉ quan bảo vệ thuộc tộc dân Miên. Bà Đen bỏ nhà lên tu hành ở một chùa trên núi. Bà trở thành ni cô vì áp lực gia đình phải lấy chồng, con một sỉ quan bảo vệ vùng Trảng Bàng. Khi bà mất, nhà Nguyễn Phước ra lệnh đúc tượng bằng đồng đen thờ bà. Và mãi cho đến trưa ngày 30 tháng giêng âm lịch, đặc biệt là ngày trăng rằm tháng giêng, du khách từ TP HCM và các tỉnh miền Nam ồ ạt hành hương đến đây cúng vái và thưởng ngoạn. Khởi sự từ chân núi, họ phải leo nữa núi để đến nhà làng cộng đồng Linh Sơn, rồi theo đường mòn dẫn tới chùa Bà Đen. Chùa thết đãi cơm chay . Ai ăn bao nhiêu cũng được, nhưng phải cúng tiền cho chùa, tùy túi tiền mình. Lễ Hội Oc Om Boc là một thánh lễ thờ Thần Mặt Trăng của tộc dân Miên ở Sóc Trăng. Nhằm vào ngày rằm tháng chạp Phật Lịch hay trong tháng 10 theo Tây Lịch Gregorian Calendar. Lễ này cốt tạ ơn thần Mặt Trăng, đã đem tới được mùa cây trồng , mùa nhiều cá và con người sức khỏe tốt lành . Ngày rằm khi trăng xuất hiện, dân gian sửa sọan lễ ở trước mặt chùa hay trong nhà mình, cúng cốm xanh, chuối chín, dừa mới lột vỏ, xòai, cùng nhiều món khác. Sau buổi lễ các người già cả lấy cốm xanh phân phối cho các trẻ em có mặt. Dân gian cũng thả lồng đèn lên trời và lên các đò - bè cây chuối treo đèn và kết đầy thức ăn cúng bái vào các kênh và theo các sông , có âm nhạc theo tiếp điệu . Thủ tục thả lồng đèn và thả bè chuối cốt đẩy xa bóng tối và ẩm ướt mùa mưa. Sau ngày rằm là ngày đua thuyền Ngo Boat race. Theo ngôn ngữ Khmer Ngo Boat là Tuk Ngo. Đò là một một khúc gỗ đục lòng hình thoi - lozenge, đầu đuôi cong lên, cho nên người chèo phải hết sức thành thạo. Nếu không, thuyền sẽ lật ngược ở cuộc thi. Khách thưởng ngọan đứng đầy nhóc hai bên bờ sông rạch, trải dài mấy chục km. Thuyền trưởng đứng giữa đò - bè khuyến khích đồng đội bằng tíếng cồng - gong. Lúc đò bè đầu tiên đến mức, dân tham dự la hét vang rền , tin rằng họ đã làm tròn bổn phận đối với Thần Trăng. Chùa Bà hay chùa Thiên Hậu Thánh Mẫu ở thị trấn Lái Thiêu. Theo truyền thuyết tên Bà là Lâm Mỹ Châu, sinh quán ở Trung quốc. Một ngày nào đó,lúc đang dệt vải, bà ngưng làm và nói với mẹ là cha và các anh đang bị hiểm nguy ở biển cả. Hai ngày sau, hai người anh trở về nhà, nhưng không có tin tức cha. Từ đó, Lâm Mỹ Châu lừng danh có tài đóan số mệnh và thời tiết trên biển. Nhờ tài năng, bà đã cứu nguy cho nhiều người thóat khỏi nguy nan, ngoặc nguèo. Số phận hẩm hiu- ngắn ngủi nên bà tạ thế khi mới 20 tuổi, nhưng lại trở thành một uy lực tinh thần cao cả. Bà thường bay trên trời biển cả để cứu mạng người và thuyền tàu mắc nạn. Nhờ tài danh này, bà được vua Tàu gọi tên là Thiên Hậu Thánh Mẫu, Mẹ của Đất và Biển, và dân gian thờ phụng ở miền bờ biển Phúc Kiến - Fujian. Người Hoa đến Việt Nam thường bằng tàu thuyền, nên trong cuộc tha phương thường đến Miếu Bà cầu nguyện an tòan sinh mệnh, của cải. Dân gian tham dự Lễ Hội không chỉ là công dân tỉnh cũ Sông Bé ( nay là hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước) mà còn tất cả mọi tỉnh Việt Nam và nhiều nước ngọai quốc. Cúng dường khởi sự từ nữa đêm . Chùa Lễ Hội Thiên Hậu Thánh Mẩu trang hòang lấp lánh và sặc sở sáng rực trời . Có 12 lồng đèn lớn treo trước mặt miếu thờ, tượng trưng cho 12 tháng của một năm, chờ đợi phúc quả. Vật liêu cúng dường là heo quay nhỏ , gà vịt, xôi , bánh ngọt và trái cây. Sau lễ cúng dường là múa sư tử, múa lân và cờ xí tưng bùng ở nhiều nơi. Múa xong, ba nhóm múa sư tử hay lân sẽ tụ lại ở sân chánh, cúng lạy Bà xin bố thí ân đức, mãi cho đến giữa trưa, rồi lễ rước kiệu Bà mới khởi dạo từ đường này qua đường khác .Đến 6 giờ chiều , lễ rước kiệu trở lại Chùa Bà . Một tràng pháo dài sẽ đốt nổ rang làm dấu hiệu chấm dứt Lễ Hội .
Ngòai chùa Thiên Hậu, Thủ Dầu Một còn có Chùa Ông ,chùa Tây Tạng và Chùa Hội Khánh, một chùa phật giáo xây cất từ năm1741, chánh điện có nhiều tượng phật không mấy thua kém các tượng Phật mới đúc theo kỷ thuật Huế ở chùa Bái Đính , tỉnh Ninh Bình . Một tượng Phật to lớn chiếm 700 mét vuông ( ? ).
Muốn ăn cây trái mà không đến được miệt vườn sông Tiền - sông Hậu, bạn có thể đến vườn cây trái Lái Thiêu, thưởng thức măng cụt nổi tiếng từ lâu, nhưng nay có thể ăn mít tố nữ , chôm chôm bóc vỏ Java , các lọai bưởi “ Biên Hoà “xa xưa, từ năm 2011 thêm giống tên gọi là bưởi Bạch Đằng ( ? ) , nguyên quán Tân Uyên ( Uyên Hưng) - Bình Dương . Ăn ngon địa phương thì đến Chợ Búng ăn bánh Bèo Bì Mỹ Liên ( Chợ Búng, Thuận An) , da heo nấu chín bằng nước dừa, xắt nhỏ rắc trên bánh bèo hay Bún Bì - Bì Cuốn, nếu muốn thay đổi mùi vị . Bún Tôm ở làng Châu Trúc ( Phú Mỹ , Bình Dương ) hay Bún Tôm Bình Dương cũng rất ngon . Bún Bình Dương không giống các lọai bún Sài Gòn hay ở nhiều tỉnh miền Nam là bún làm từ trước. Bún Bình Dương chỉ mới làm và nấu ngay khi vào khách muốn ăn. Tôm cũng được nấu theo một cách đặc biệt để tăng thêm mùi vị . Hoặ đến Thủ Đầu Một ăn Gà nấu ngon, rẽ tiền ở Quán Gió , phường Chánh Nghĩa , ăn Thịt Bò hay Đầu Cá Tra - Cá Vồ ở Hàng Dừa , phường Phú Văn , ăn “Hải Sản” như tôm, cua, sò , nghêu ,có tôm cá sông, nước ngọt cũng rất ngon ở Quán Tư Nhớ ( công viên Phú Cường) , Quán Kim Dung phường Chánh Nghĩa, Quán Du lịch Xanh -Dìn Ký - Bình Nhâm ( gần Cầu Ngang- Thuận An - Bình Dương) , khu Nghĩ mát Phương Nam ( trên quốc lộ 13, hướng TP HCM ) … Và đủ kiểu quán cà phê An Viên, Paradis, Chiều Tím, Tình Bằng Hửu, Mây Hồng , Roma, Gió và Nước v.v…
Không muốn thăm viếng di tích lịch sử buồn chán như Địa Đạo khuTam Giác Sắt , Nhà Tù Phú Lợi … thì đến thăm viếng các làng tiểu công nghệ , làng men sứ sành như làng đồ gốm Minh Long ceramics, làng khắc đồ gỗ, chế tạo giày , guốc gỗ wooden shoes Bình Nham, làng khắc đẻo gỗ Phú Thọ , và nhất là làng nghệ thuật sơn mài - lacquer Tưởng Bình Hiệp Bình ... Thích tiêu khiển nhậu nhẹt , hát xướng, nhảY múa ... thì đến các tiệm Karaoke: Nice , Thế Kỷ , Bóng Trăng , Phương Ngân… ) luôn luôn tình bày bài ca mới nhất và dịch vụ sảng khóai . Hay các câu lạc bộ- club, mở cửa từ 8 giờ tối đến 2 gìờ sáng mỗi ngày: Đêm Màu Hồng, Mimi Club , Bình Dương Club ( gần Viện Đại Học Bình Dương trên quốc lộ 13 ) nơi đây có nào là âm nhác sống động như ca vũ , pop , hiphop .., những nước uống kỳ quái cốc tên , rượu , bia và cả hút shisha nữa … Các nơi tiêu khiển khác là hai Công Viên Thành Lễ Park và Thành Phố Bình Dương Mới , có những cảnh quan đẹp đẻ, cây cối mát mẽ um tùm, an lành, bạn có thể chạy luyện tập chầm chậm - jogging, chơi vài môn thể thao và tắm hồ vì Công viên Thành Lễ có nhiều hồ thơ mộng. Hay hơn hết, nếu bạn đi cả gia đình thì đến Công viên Đại Nam Văn Hiến . Công Viên này lớn hơn hai công viên Đầm Sen và Suối Tiên . Công viên cách TP HCM về phía Bắc 30km , tọa lạc ở phường Hiệp An, thị xã Thủ Dầu Một diện tích 476 ha, trong số này 61 ha dành cho khu thờ phụng chùa chiềng , đền miếu di tích tinh thần lịch sử 4000 năm văn hóa Việt Nam, đặc điểm là 2 con rồng khổng lồ dài 270m bao quanh . Công Viên có nhiều trò tiêu khiễn lạ lùng : xi nê 4DF, 40 trò chơi giật gân - rợn tóc gáy, trò chơi công viên nước cho trẻ em, sở thú rộng 12.5 ha , chứa đến 100 lòai động vật có vú , chim chóc, bò sát , cá kiểng ; nhiều nơi thích thú làm bửa ăn ngòai trời - picnic cuối tuần…. Đáng lưu tâm là điểm Công viên chỉ mới họat động vài năm nay , nên cây mộc chưa đủ lớn cho bóng mát vào ban trưa Công viên có thể rất nóng nực buổi trưa, khi mặt trời quá chói lọi. Vì thế còn cần đeo kính râm chống nắng chiếu và uống nước đầy đủ.
Công nghệ
Năm 2010, công nghệ- xây cất Bình Dương đã đạt 63% GDP , gần gấp đôi dịch vụ chiếm 32.6 % và nông lâm ngư chỉ còn 4.4 % . Tháng 8 năm 2012, sản xuất công nghệ ước lượng là 81 632 tỉ đồngVND , tăng 11.7 % so với cùng thời gian năm 2011 . Lảnh vực nội địa tăng 10.6%, lảnh vực đầu tư ngọai quốc tăng 12.3 %. Sản phẩm công nghệ tăng mau lẹ so với năm 2011, gồm xe chở khách và ô tô tăng 40%, dược phẩm tăng 17.6% , mì ăn liền 7.8%. thực phẩm chăn nuôi tăng 8.5 % .. . Hầu có thêm ý niệm về phát triễn công nghệ Bình Dương, trong 6 tháng đầu năm 2012, xuất khẩu tỉnh trị gía 5.122 tỉ đô la Mỹ-USD tăng 17.9 % so cùng thời gian năm 2011. Các xuất khẩu có mức tăng trưởng cao là cao su tăng 13.8 %, tơ sợi tăng 8.55 , bàn ghế tủ giường tăng 12.8% và đồ điện tử tăng 8.5% . Lần đầu tiên tỉnh nhà có thêm 55 xí nghiệp mới xuất khẩu trong tổng số tòan tỉnh là 1725 xí nghiệp xuất khẩu . Tỉnh đã xuất khẩu cho 193 quốc gia và lảnh thổ thế giới . Nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2012 tưởng cũng nên biết , để hiểu rỏ thêm những ngành nào cần khẩn thiết đầu tư, đào tạo chuyên viên và nhân công lành nghề.. . Các ngành này là vật liệu , máy móc trang bị và tiện nghi hổ trợ chế tạo , không có bao nhiêu là cao kỷ cả. Tổng số tỉnh nhập khẩu là 4.188 ti USD, 6 tháng đầu năm 2012 , tăng 15.1 % so cùng thời gian năm 2011. Hiện nay Bình Dương có cả thảy là 28 công viên công nghệ , tổng diện tích trên 8700 ha, hơn1200 xí nghiêp nội ngọai đang họat động , tổng số tư bản đầu tư là 13 tỉ đô la Mỹ - USD. Tỉnh Bình Dương dự trù là đến năm 2020, tỉnh sẽ 1 thiết lập 31 công viên công nghệ - industrial parks tổng diện tích là 9360.5 ha và 23 cụm công nghệ - Industrial clusters tổng diện tích là 2704 ha . Đầu năm 2014, các công nghệ có mức tăng trưởng mau lẹ vẫn thuộc các ngành chế biến gỗ , may mặc và tơ sợi, giày dép và đồ sành sứ ….
( Irvine , Nam Ca L i - Hoa Kỳ, ngày 6 tháng 7 năm 2014)
|