An Giang, Long Xuyên- Châu Đốc,
một phần đất Tầm Phong Long , năm 1757 thuộc đạo Châu Đốc sông Sau- Hậu Giang, vùng đất miền Tây gần như mảnh đất cuối cùng chấm dứt cuộc Nam Tiến của dân Việt, ngòai đa số dân Kinh, còn dân Việt gốc Miên –Khmer Krom đông nhất nước , dân Chăm( Chàm ) hồi giáo – Chà Châu Giang, xứ tín ngưỡng bà Chúa Xứ , đạo Phật Thầy Tây A-Bửu Hương Kỳ Soơn, tu thực hành Tứ Ân , nguồn gốc Phật giáo Hòa Hảo, có nhiều đồi núi không cao nhưng nổi tiếng ( núi Sam , núi Cấm , Thất Sơn , núi Cô Tô ) , cảng xưa Ba Thê văn minh đô thị Ốc Eo ,sớm nhất Đông Nam Á, xứ lúa gạo , nuôi cá Pangasius, nhưng cần phát triễn công nghệ mạnh mẽ hơn nữa, tăng gia giao thương và hợp tác Miên- Việt…
G S Tôn Thất Trình
Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời,
Chớ Năm Non , Bảy Núi vậy thời ở đâu ?
Năm Non ở tại xứ Đà ( Nẳng ),
Bảy Núi Châu Đốc gọi là Thất Sơn.
Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc
Dốc nào cao bằng dốc Nam Vang,
Đói no em chịu cùng chàng,
Xuống sông ra biển, lên ngàn cũng theo .
( Ca Dao miền Nam )
Trong thực tế thì An Giang còn bờ sông phía Tây Nam của dòng sông Trước ( Tiền Giang ). Bờ phía Tây và luôn cả Cù lao Tây trên sông Tiền thuộc tỉnh Đồng Tháp , còn Cù lao Giêng phía dưới thuộc An Giang, nhưng bờ phía đông Cù lao Giêng lại thuộc Đồng Tháp. Thị trấn Chợ Mới gần nơi hai nhánh sông Tiền nhập một, gần Cù Lao Tây. Hai đô thị lớn nhất Châu Đốc và Long Xuyên đều nằm trên sông Hậu .
Vị trí, phân chia hành chánh ngày nay
Tọa độ tỉnh An Giang là 10030’ vĩ tuyến Bắc và 105010’ kinh tuyến Đông. Phía Tây Bắc, An Giang chia sẽ 100 km biên giới với Căm Bốt thuộc 3 tỉnh Pray Veng ( không phải là tỉnh kế cận Svay Rieng) có thị trấn lịch sữ Miên- Việt là Ba Nam, Kang Dan và Tà Keo ( ? ). Phía Đông, giáp tỉnh Đồng Tháp . Phía Đông Nam giáp TP Cần Thơ. Phía Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang. Diện tích An Giang năm 2001 ghi là 3 406.2 km 2( 1 315,1 dặm Anh vuông) nhưng tài liệu năm 2010 lại cho biết diện tích này là 3 536.8 km2 . Năm 1999 dân số An Giang là 1970 100 người; năm 2001 là 2099 400; năm 2004 là 2 170 100 ; nhưng năm 2010 lại ghi chỉ còn 2149 500? và năm 2011 là 2 151 000 . Thủ phủ là TP Long Xuyên. Châu Đốc là thành phố thứ hai của tỉnh. Một thị trấn lớn là Tân Châu. Về phương diện hành chánh, An Giang hiện có 9 huyện là An Phú ( 2 thị trấn và 12 xã nông thôn) , Châu Phú - Cái Dầu ( 1 thị trấn và 12 xã ) , Châu Thành - An Châu ( 1 thị trấn và 12 xã), Chợ Mới ( 2 thị trấn và 16 xã ), Phú Tân- Chợ Vàm ( 2 thị trấn và 16 xã ), Tân Châu - Phú Châu ( 5 phường và 9 xã ), Thọai Sơn- Núi Sập ( 3 thị trấn và 14 xã ), Tịnh Biên- Nhà Bàng ( 3 thị trấn và 11 xã ), Tri Tôn ( 2 thị trấn và 13 xã ). Các tộc dân An Giang gồm Kinh - Việt, Khmer, Chăm (Chàm ) và Hoa. Vì gần Căm Bốt nên Khmer Krom là tộc dân đông nhất tỉnh nhà không thuộc nguồn gốc Kinh - Việt. Kế tiếp theo là tộc dân Chăm ( còn có tên là Chà Châu Giang, không phải là Chà Và - Java tuy từ Chà là tên rút gọn của Chà Và ) theo đạo hồi giáo Sunni Islam, khá đông, tuy ít hơn dân Kinh- Việt, ở thành phố Châu Đốc .
Suôi dòng lịch sử
An Giang ( và Châu Đốc ) là một trung tâm quan trọng của nền văn minh Ốc Eo - Phù Nam xưa cũ, cách đây một ngàn năm, đã biến mất một dạo và sau đó nhiều vùng đất đai Phù Nam đã bị một tiểu quốc là Chân Lạp xâm chiếm, đô hộ. Vì văn mình Ốc Eo- Phù Nam đã được đề cập nhiều ở các bài về tỉnh Long An, tỉnh Đồng tháp … nên không nói thêm ở đây nữa .
Công lao mở nước Nam Tiến của công nương Ngọc Vạn lớn hơn công chúa Huyền Trân nhiều.
Năm 1620, Chúa Sải Nguyễn Phúc Nguyên , nghĩ đến Đồng Bằng sông Cửu Long, gả người con gái thứ nhì Nguyễn Phước Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Chey - Chetta II trị vì từ 1618 đến 1628. Năm 1623, nhờ sự vận động của Hoàng hậu Ngọc Vạn, vua Chân Lạp nhường lại khu dinh điền vùng Mô Xòai- Bà Rịa cho người Việt khai thác. Năm 1658, Thái hậu Ngọc Vạn chỉ cách cầu cứu chúa Nguyễn cho hai hòang thân So và Ang Tan đánh vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân( trị vì 1642- 1659) . Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần cử Phó tướng dinh Trấn Biên ( Phú Yên lúc đó ) là Tôn Thất Yến, đem 3000 quân qua giúp, bắt được Nặc Ông Chân ở vùng Mô Xòai, đem về giam ở Quảng Bình. Nặc Ông Chân từ trần năm 1659. Chúa Nguyễn phong So lên là vua Chân Lạp tức là Batom Reachea , trị vì 1660-1672. Năm 1672, vua Baton Reachea bị giết. Vợ Batom Reachea sát hại được kẻ đã giết chồng mình, đưa con Batom Rachea lên ngôi là Ang Chai, sử Việt gọi là Nặc Ông Đài . Ông Đài liên kết với Xiêm La đưa quân phòng thủ Sài Côn, chống lại Đại Việt. Năm 1674, Chúa Hiền cử Cai cơ Nguyễn Dương Lâm thuộc dinh Thái Khương, đem quân đánh chiếm Sài Côn và tiến lên Nam Vang, Nặc Ông Đài trốn vào rừng rồi bị thuộc quyền giết chết . Ang Tang cũng tử trận, trao quyền lại cho con là Ang Non, tức là Nặc Ông Nộn, đóng quân ở Oudong-Long Úc . Em Nặc Ông Đài là Ang Saur, sử Việt gọi là Nặc Ông Thu, đuổi Nặc Ông Nộn xuống Sài Côn. Chúa Hiền nhận Nặc Ông Thu làm chánh quốc vương đóng ở Oudong và lập Nặc Ông Nộn làm đệ nhị quốc vương, đóng ở Sài Côn.
Thành lập chánh thức tỉnh An Giang năm 1832
Năm 1698, chúa Minh Nguyễn Phước Chu cử Nguyễn hửu Cảnh (hay Kính) kinh lược đất Chân Lạp. Nguyễn hửu Cảnh lấy đất Đồng Nai đặt thành huyện Phước Long lập dinh Trấn Biên ( nay là Biên Hòa ), lấy đất Sài Côn đặt thành huyện Tân Bình lập dinh Phiên Trấn ( Gia Định ngày nay ). Năm 1735, tổng binh đất Hà Tiên là Mặc Cửu thần phục Đại Việt năm 1708, từ trần. Chúa Minh phong cho con là Mạc Thiên Tứ ( Tích) thay cha làm đô đốc trấn Hà Tiên. Năm 1744, Chúa Vỏ Nguyễn Phước Khóat, cầm quyền từ 1738 đến 1765, chính thức xưng vương hiệu, chia Xứ Đàng Trong ra làm 12 dinh, có 3 dinh thuộc đất Chiêm Thành cũ là dinh Phú Yên, dinh Bình Khương ( Khang ) và dinh Bình Thuận và 3 dinh thuộc đất “ Chân Lạp cũ” là dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn và dinh Long Hồ .
Năm 1757, vua Chân Lạp là Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long ( nay là tỉnh An Giang và hai huyện Tầm Đôn và Xuy Lạp tỉnh Vĩnh Long ). Chúa chia đất này thành 3 đạo: đạo Đông khẩu ở Sa Đéc, đạo Tân Châu ở Tiền Giang và đạo Châu Đốc đạo ở Hậu Giang. Theo Lâm văn Bé( Dòng Việt 2005 ) đến năm 1768, cuộc Nam Tiến của dân Việt Nam coi như chấm dứt. Lảnh thổ Nam Kỳ lúc này chia thành 3 tỉnh : Đồng Nai ( bao gồm các tỉnh miền Đông ) Sài Gòn ( bao gồm các vùng đất từ sông Sài Gòn đến cửa Cần Giờ ) và Long Hồ ( bao gồm các vùng đất miền Tây ). Theo Phan Khoang ( Việt sử Xứ Đàng Trong- Quyển Hạ ), năm 1769, vua Tiêm ( Xiêm La - Thái Lan ngày nay ) Trịnh Quốc Anh tổ chức một cuộc chinh phạt lớn để diệt hai con vua cũ, đánh chiếm Tô Châu và Hà Tiên, đuổi Thiên Tứ và các con chạy xuống Kiên Giang - Rạch Giá, Trấn Giang- Cần Thơ. Lưu thủ Long Hồ Tống phước Hợp đem binh thuyền tới cứu, kéo thẳng tới sông Châu Đốc chống cự. Năm 1772, Chưởng cơ Nguyễn cửu Đàm ( con Nguyễn cửu Vân ), khâm sai chánh thống xuất và Trần phước Thành tham tán quân vụ, đem 10 000 quân thủy bộ hai dinh Bình Khương và Bình Thuận và 30 chiến thuyền vào Gia Định đánh Chân Lạp. Tháng 6 năm 1772, Tống phước Hợp tiến đóng giữ Châu Đốc. Nguyễn khoa Thuyên đem 3000 quân và 50 thuyền đánh Tiêm, nhưng thua phải rút về Kiên Giang; sau đó tiến lên Nam Vang phá được quân Tiêm, vua Tiêm và Nặc Nộn đều bỏ chạy. Quân Việt thu phục các phủ Nam Vang, La Bích và Nặc Tôn trở về nước. Năm 1775, Nặc Tôn nhường ngôi cho Ang Non II, tức Nặc Vinh, trị vì 1775 - 1779. Nặc Vinh không ưa người Việt và thân Tiêm. Sau khi quân Tây Sơn nổi dậy, quân nhà Nguyễn Phước Gia Định yêu cầu Nặc Vinh giúp đở , nhưng Nặc Vinh từ chối, và cũng không nạp cống nữa. Năm 1776, chúa Duệ Tông Nguyễn Phước Thuần sai Nguyễn Phước Ánh đem quân đánh. Nặc Vinh biết nên đem quân chiếm Mỹ Tho và Vĩnh Long, nhưng không giữ được lâu. Từ năm 1780, Đại Việt đã kiểm sóat gần như hòan tòan 6 tỉnh Nam Kỳ ngày nay. Năm 1832, Vua Minh Mạng đổi tên trấn thời vua Gia Long và lập 6 tỉnh (Nam Kỳ Lục tỉnh ) thay cho 5 trấn thời vua cha; trong số 6 tỉnh này có tỉnh An Giang.
Vào thế kỷ thứ 19, nước Căm Bốt tiếp tục là nơi hai quốc gia Việt Nam và Tiêm La tranh dành ảnh hưởng, can thiệp vào nội tình Chân Lạp. Triều đình Chân Lạp chia ra làm 2 phe phái đối thủ : một phe thân Việt- Nguyễn và một phe thân Xiêm- Chakri . Dù vua Chân Lạp năm 1806, có gửi triều cống sang cả hai thủ đô Vọng Các - Bangkok và Huế đi nữa, vua cũng không đem lại hòa bình lâu dài cho xứ sở ông . Tranh chấp giữa vua và các anh em vua, khiến năm 18 13, cả Tiêm lẫn Việt đều gửi quân đến Cam Bốt. Tiêm La chiếm các tỉnh Tonlé Repou, Stung Chen và Mlu Prey. Đại Việt khi đặt Nặc Ông Chân lên ngôi lại đòi quyền chánh thức bảo hộ Chân Lạp. Năm 1833 , quân Tiêm tấn công Việt Nam trên 5 chiến tuyến ở Lào và ở Cambốt . Khi bị đẩy lui , bảo hộ Cam Bốt biến thành xâm chiếm . Năm 1834, vua Minh mạng biến Căm Bốt thành “ Trấn Tây Thành” , chia ra làm 32 huyện và thi hành một chánh sách đồng hóa triệt để . Chánh sách gây ra nhiều óan hận nên dân Miên nổi lọan khắp nơi , đặc biệt do hòan thân Nac Ông Duang - Nặc Ông Dương lảnh đạo, có Xiêm La ủng hộ sau lưng . Vua Thiệu Trị năm 1841 , phải ra lệnh rút quân . Nhưng rồi Xiêm La lại khai thác Căm Bốt , khiến Căm Bốt phải cầu cứu Việt Nam . Căm Bốt thành chư hầu của cả hai nước Xiêm La và Việt Nam. Tình trạng này kéo dài mãi cho nên năm 1863, sau khi Pháp đã chiếm Sài Gòn . thành lập nền bảo hộ Căm Bốt. Thỏa hiệp này do vua Norodom cha vua Sihanouk ký ngày 11 tháng 8 năm 1863, lại không đề cập gì đến biên giới Việt- Miên, dù rằng chính nó là nguyên nhân vua Norodom xin Pháp bảo hộ . Theo nhà khảo cỗ học Pháp Franois Maspero ( tài liệu số 8, năm 1975 ), chánh quyền thuộc địa Nam Kỳ đã định ranh giới hai nước một cách độc đóan, không hỏi gì hai nước này gì cả. Chẳng hạn biên giới giữa Miên và Xiêm La thay đổi , tùy thuộc thời kỳ và lực lượng quân sự giữa Pháp và Tiêm . Trong phiên bàn cải ngày 9 tháng 3 năm 1949 tại Quốc Hội Liên Hiệp Pháp - Union francaise , phái đòan Căm Bốt tỏ ra chia rẽ nhau, và việc Căm Bốt đòi lại các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên và một phần các tỉnh Rạch Giá, Sa Đéc,Tân An,Tây Ninh ,đảo Phú Quốc, bảo vệ các thiểu số Khmer, sử dụng cảng Sài Gòn và quốc tế hóa sông Mê Kong, theo bà Marie -Alexandrine Martin ( Le mal Cambodgien, 1989 ), không được mấy ai ủng hộ , ngọai trừ vài dân biểu đảng xã hội Pháp. Năm 1953, khi Căm Bốt dành lại quyền độc lập nước nhà, cũng không đòi hỏi thêm gì hơn được, phải theo các đường ranh giới đã vẽ ra từ năm 1870 đến năm 1914. Tháng 8 năm 1959, vua Norodom Sihanouk đến Sài Gòn đề nghị với tổng thống Đệ Nhất Cộng Hòa chịu bải bỏ “ quyền hạn lịch sử - droits historiques” đòi lại các tỉnh miền Đông và miền Tây, nếu Việt Nam chịu công nhận nhận các ranh giới hai nước . Nhưng tổng thống Diệm lại phản đề nghịranh giới Sihanouk đưa ra và Sihanouk không chịu. Vào đầu thập niên 1960, quân đội Cộng Hòa miền Nam thi hành “ quyền đuổi theo- droit de suite” quân Giải Phóng miền Nam FNL và quân Bắc Việt, đặc biệt ở “vùng Mỏ Vịt- Bec de canard, Viêt Nam lại gọi là Mỏ Vẹt” tỉnh Tây Ninh, năm 1870 thống đốc Nam Kỳ đã đề nghị nhập vào lảnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa miền Bắc lẫn FNL, đều nhìn nhận các ranh giới thuộc địa hay ranh giới “ hiện hửu -actuelles “ .Nhưng Đường mòn Hồ Chí Minh dùng chở người và vật dụng đánh Cộng Hòa Miền Nam, đồng thời cũng là căn cứ trú ẩn, bệnh viện, kho dự trữ lương thực võ khí, các trung tâm huấn luyện, trên đất Căm Bốt gần các tỉnh biên giới Việt Nam Cộng Hòa, nên nhìn nhận không có giá trị tí nào cả. Miền Tây Bắc Cam Bốt thuộc các tỉnh Stung treng, Ratanakiri, Mondulkiri thực tế do các Cọng Sản Việt Nam và đồng minh lúc đó là Khmer Đỏ kiểm sóat. Sau năm 1972 và đến năm 1975, một số Khmer Đỏ, tinh thần quốc gia qúa khích, bắt giết hay đuổi cư dân Việt Nam khỏi vùng này. Sau khi Pol Pot thắng chánh phủ Lon Nol, năm 1975, Bắc Việt vẫn cố tâm xâm nhập các tỉnh biên giới Miên - Việt, nhưng bị chống đối khó khăn lớn. Riêng về tỉnh An Giang, phải kể đến vụ Khmer Đỏ tàn sát dân làng Ba Chúc. Theo Wikipedia - tháng giêng 2014 ( “ chronologie Cambodge de1960 à 1990”- Khmercanada.site.voilà., ngày 02 tháng 6 năm 2013 ), khi Khmer Đỏ khởi sự đột kích vào các tỉnh từ Tây Ninh xuống đến Hà Tiên và các đảo Biển Tây , ngày 15 tháng tư năm 1975, Ba Chúc là một làng nhỏ an lành, có 3500 người. Trong 2 tuần lễ, kết thúc ngày,30 tháng tư năm 1978, Khmer Đỏ giết chết hết những ai thở được, chặt tay chân trẻ em và chặt người lớn ra làm nhiều khúc . Khi Khmer Đỏ rút lui, làng Ba Chúc chỉ còn 2 người sống sót . ...
Địa hình, địa danh tỉnh An Giang
Địa hình An Giang thuộc ĐBSCL gồm phần lớn là đất thấp khó thóat nuớc, cao độ trung bình 4- 10m . Vùng núi thấp là Bảy Núi - Thất Sơn thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên và núi Sam . Núi cao nhất Bảy Núi -Thất Sơn là núi Cấm, cao 710m cũng là núi rộng lớn nhất gần làng An Hảo huyện Tịnh Biên.
Núi Sam, cao gần 1000m ( ? )có tài liệu ghi chỉ cao 241m ( ? ) và rộng 280 ha ở xã Vĩnh Tế , thị xã Châu Đốc, cách trung tâm thị xã 5km . Tên gọi là Sam vì nhìn từ xa trông núi tựa một con cua lớn hình rau sam đen - Black Portulaca King Crab, dán vào ngay chính giữa một cánh đồng bao la xanh ngắt. Một truyền thuyết khác thì đây là một hòn đảo giữa biễn có nhiều cây rau sam mọc nên đảo có tên là Hòn Lảnh Sơn hay Hòn Sam. Đường lên đỉnh núi, cây cối mọc xanh tốt ở các sườn núi. Du khách có thể đi bộ hay thuê xe tắc xi chở lên núi. Từ đỉnh núi có thể nhìn thấy thị xã Châu Đốc, một bức tranh vẽ nhà cao ráo, xây cất dọc theo kênh đào thuần khiết và thơ mộng . Nhưng nổi tiếng hơn hết là núi có Miễu Bà chúa Xứ , chùa Tây An và lăng Thọai Ngọc Hầu. Miễu bà Chúa Xứ là một ngôi miếu rộng, ván gạch, lợp ngói, nơi chánh điện có pho tượng Bà rất to , sơn phết rực rỡ. Tượng kiến trúc theo các nhà tạc tượng Bà La Môn, khỏang trước thời Đế Thiên Đế Thích - Angkor Vat. Hai bên bàn thờ có 2 câu đối nói lên sự linh ứng của bà :
“ Cầu tất ứng, thành tất linh, mộng trung chỉ thị,
Xiêm khả kính, Thanh khả mộ, ý ngọai nan lường”
Tín ngưỡng Bà Chúa Xư’ chịu ảnh hưởng hay đã được vay mượn của người Chàm. Hai lễ hội qui tụ đông đảo quần chúng nhất là ngày ‘Vía Bà” ở núi Sam (ngày 25 tháng 4 âm lịch) và ngày kỷ niệm thành lập Phật Giáo Hòa Hảo( ngày 18 tháng 5 âm lịch) ( Nguyễn Thanh Liêm - Châu Đốc, tháng giêng 2006 ). Cách Miễu Bà Chúa Xứ chừng vài trăm thước là chùa Tây An , xây cất vào năm Thiệu Trị thứ bảy ( 1847 ). Chùa chứa đến 140 cốt phật và thờ cả tượng Thần Nông, Hùynh Đế, Ngọc Hòang và tượng phật Thầy Tân An, tên thật là Đòan Minh Huyên ( 1807 - 1856 ). Đạo Phật Thầy Tây An giản dị hóa thủ tục thờ cúng , không gõ mõ tụng kinh, không cạo đầu mặc áo cà sa, không cần phải xây cất chùa, xây tượng Phật . Tu ở đâu cũng được, miễn tránh điều ác, làm điều lành, thực hành bốn ơn lớn - Tứ Ân ( là ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo, ơn đồng bào nhơn lọai) . Giáo lý Phật Thầy có phần mâu thuẩn với khung cảnh chùa Tây An , có hàng trăm tượng phật bên trong.Thật ra chùa đã xây dựng trước khi Phật Thầy bị Pháp thuộc địa an trí, đưa về Châu Đốc để dễ bề kiểm sóat . Đạo Phật Thầy Tây An còn có tên là Bửu Sơn Kỳ Hương , nguồn gốc của Phật Giáo Hòa Hảo sau này. Năm 1939, theo chú thích của Trần Gia Phụng ( Dòng Việt - 2005 ), ông Hùynh Phú Sỗ ( 1919- 1947 ) thành lập Phật Giáo Hòa Hảo, chủ trương học tập, tu nhân, cải cách đạo Phật theo đúng với đời sóng thực tế của người nông dân Việt Nam và giản dị hóa thủ tục, tổ chức theo nền tảng của Bửu Sơn Kỳ Hương.
Lăng Thọai ngọc Hầu, tên thật là Nguyễn văn Thọai, gốc tỉnh Quảng Nam, cũng nằm ở chân núi Sam bên trái con đường Châu Đốc - Tịnh Biên . Sau nhiều bậc đá, sẽ lên đến một sân rộng, phía trước có 4 trụ đá khổng lồ và bên trong có nhiều ngôi mộ cao, thấp. Sau hàng chục ngôi mộ là một đền thờ xây bằng tường vôi, dưới những tàn cây u nhã, tựa lưng vào núi Sam. Đó là lăng Thoai Ngọc Hầu, theo vua Gia Long đánh Tây Sơn, công cán bên Xiêm, bên Miên và Lào, giữ nhiều chức quan trọng như chưởng cơ Bắc Thành, trấn thủ Lạng Sơn, trấn thủ ĐịnhTường, trấn thủ Vĩnh Thanh, Bảo Hộ Cao Miên, Khâm sai thống chế án thủ Châu Đốc v.v… Nhưng 2 công tác được người đời nhớ nhiều nhất là con kinh chạy dài từ Châu Đốc đến Hà Tiên, dọc theo biên giới Miên - Việt vua Minh Mạng đặt tên Vĩnh Tế Hà ( Vĩnh Tế là danh xưng của Nhất phẩm Phu nhân Châu thị Tế, vợ của Bảo hộ Thọai ) và con kinh thứ hai ăn thông từ Long Xuyên qua RạchGiá, triều đình nhà Nguyễn Phước đặt tên là Thọai Hà.
Núi Cấm là một trong Bảy Núi - Thất Sơn. Bảy núi là Núi Két - Anh Vũ Sơn, Núi Giày 5 giếng - Ngũ Hồ Sơn, Núi Gấm hay Núi Cấm - Thiên Cẩm Sơn, Núi Tượng - Liên Hoa Sơn, Núi Nước gần Núi Tượng - Thủy Đài Sơn, Núi Dài - Ngọa Long Sơn và Núi Tôi - Phụng Hòang Sơn. Năm Non là 5 cái chỏm cao( còn có tên là Vồ ) cuả Núi Cấm là Vồ Bò Hong , Vồ Đầu , Vồ Bà , Vồ Ông Bướm và Vồ Thiên Tuế. Thất Sơn nằm trong tam giác Tịnh Biên - Nhà Bàng - Tri Tôn, choán một khu vực dài 30 km, bề ngang 17 km, 1/7 diện tích Châu Đốc, là một pháo đài vô cùng kiên cố bên cạnh Kampuchia và Thái Lan, nơi trú ẩn - mật khu những anh hùng chống Pháp cuối thế kỷ thứ 19 sang đầu thế kỷ thứ 20 và là cái nôi của Phật Giáo miền Nam - Bửu Sơn Kỳ Hương . Truyền thuyết thứ nhất là Núi Cấm có nhiều thú bắt mồi rất nguy hiểm nên cấm người lai vãng. Truyền thuyết thứ hai là Chúa Nguyễn Phước Ánh trốn núp Tây Sơn truy nả ráo riết ở vùng núi này, cho nên vì lý do an tòan cấm mọi người đến gần núi . Trên cao nguyên rộng của Núi Cấm , những thắng cảnh nổi tiếng là dòng nước sông Thanh Long an bình, Động Thủy Liêm bí ẩn, Vồ Bạch tượng ( Hòn đá lớn hình Con voi Trắng ) và chùa cũ Vân Linh .
Một thắng cảnh khác của An Giang là khu rừng tràm Trà Sư, ở xã Vân Giao thị trấn Tịnh Biên. Thời gian thích hợp nhất viếng thăm lọai rừng đặc thù của ĐBSCL này là từ tháng 9 đến tháng 10. Lúc đó, nước trong rừng tràm cao 3- 4 m , ngập cả mọi đường mòn và mặt nước phủ tràn đầy 2 lọai bèo nhỏ nhất là bèo phấn Wolffia, lòai Wolffia Arrhiza xoan tròn , lục đậm và lòai Wolffia globosa, tròn dài, lục trong nhiều quốc gia trồng để ăn. Tông Wolffia thuộc họ thực vật bèo cám - Lemnaceae. Đến khu rừng tràm Trà Sư bằng hai cách : hoặc lái xe mô tô trên đường kinh hay chèo thuyền “ Vồ lái” còn có thể nhìn thấy hoa điên điển vàng Sesbania sesban một trong số 8 lòai Sesbania sp. hiện diện ở nước nhà ( lòai dân Việt thị thành biết nhiều nhất là So đủa Sesbania grandiflora , hoa trắng )...
Núi Cô Tô, cao 614m gần thị trấn Tri Tôn nhất, theo một truyền thuyết khi mới lập thiên lập địa, Trời Đất còn tăm tối, một Lão Tiên từ Núi Cấm và Núi Giày mang những tảng đá xếp chồng chất nhau cho đến rạng đông thì xây xong Núi Cô Tô. Một truyền thuyết khác lại cho hình dáng núi giống một tô ( chén, bát ) úp , nên mới có tên là Tô. Trên núi, có một nơi nổi danh tên gọi là SânTiên, theo truyền thuyết là dấu chân Đức Phật Tổ . Đường lên núi đẹp đẽ này, có những góc che lấp những căn nhà lợp lá , thỏang gió thổi mùa hương lúa gạo . Cô Tô đẹp nhất đêm sáng trăng. Lúc đó mỗi phiến lá trông tựa mỗi lá bạc gắn vào, dọc theo các dòng suối Ô Thum , Ô Thoa , hồ Ô Soài So ( ? ).
Di tích Ốc Eo, dưới chân núi Ba Thê, do nhà khảo cổ Pháp Malleret khai quật hồi thập niên 1940, phía Nam Núi Sập - Thoại Sơn, trước đây thuộc Kiên Giang ,nhưng nay thuộc An Giang ( như đồi Tức Dụp, phía Đông Nam Tri Tôn ghi là thuộc An Giang, nay thuộc Kiên Giang ? ), cách Biển Tây hơn 30 km, xưa kia có thể là một đô thị vừa là thương cảng ( đã buôn bán với Đế Quốc La Mã) của một nền văn minh vương quốc Phù Nam trải rộng cả vùng Đồng Nai - Cửu Long qua tận Kamphuchia phần đất Xiêm Lào, thời gian từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII của thiên niên kỷ thứ nhất . Văn minh đô thị - thương cảng Ốc Eo Ba Thê An Giang, có thể xem là tiêu biểu cho một quốc gia cỗ xưa, hình thành sớm nhất Đông Nam Á .
…
Danh nhân An Giang
Ngoài công đầu mở cõi của Công nương Ngọc Vạn; kế tiếp là Lễ Thành Hầu Nguyễn hửu Cảnh ( Kính ), tuyên bố chủ quyền pháp lý Việt Nam ở các tỉnh Miền Đông và miền Tây, làm thống binh tiến tận Nam Vang và nhiễm bệnh nặng khi ngừng quân tại Cù Lao Tiêu Mộc - Cồn Cái Sao, Chợ Mới - Long Xuyên ( sau đó đổi tên là Cù lao ông Chưởng -chưởng cơ thống xuất; thống binh Trần Đại Định con của tướng Long Môn Trần Thượng Xuyên năm 1731, đánh chiếm Bà Nam, khi người Lào Sà Tốt và quân Chân Lạp tràn xuống Gia Định tàn sát nguời Việt; Mạc thiên Tứ ( Tích ) mở mang đất Tầm Phong Long, sau khi Nặc Tôn dâng đất này và Chúa Võ thiết lập đạo Tân Châu và đạo Châu Đốc; Thọai Ngọc Hầu và vợ là Châu thị Tế đốc thúc đào hai đào kinh lớn công đầu bảo vệ, mở mang vùng tứ giác Long Xuyên, tưởng cũng không nên quên Quản Cơ Trần Văn Thành ( 187 67 - 1873 ) rút quân về Láng Linh chống giữ vùng An Giang Châu Đốc, như Quản cơ Nguyễn Trung Trực chống giữ Rạch Giá, Phú Quốc . ...
Trên phương diện chánh trị là :- Nguyễn Ngọc Thơ người thị xã Long Xuyên, từ năm 1957 đến tháng 11 năm 1963 là Phó Tổng thống Đệ Nhất Cọng Hòa; các năm 1945 - 54 ( ? ) là tỉnh trưởng Long Xuyên, chuyên viên cố vấn cho tòan quyền Decoux phát triễn kinh tế cho Miền Nam ( như Đòan Thêm lúc đó là chuyên viên cố vấn cho Decoux phát triễn kinh tế miền Bắc ) và có một thời gian ngắn làm thủ tướng chánh phủ cho chánh quyền tướng lảnh đạo đảo chánh năm 1963 Dương Văn Minh - Tôn Đức Thắng, quê ở Mỹ Hòa Hưng - Long Xuyên , trước tháng tư năm 1975 là chủ tịch ( Tổng Thống ) Việt Nam Dân chủ Cọng Hòa miền Bắc và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 là chủ tịch - tổng thống đầu tiên của Việt Nam Thống nhất- Việt Nam Cộng hòa Xã hội- Socialist Republic of Việt Nam .
Về văn hóa, văn chương nghệ thuật…, có lẽ nên kể ra vài nhân vật sau đây:
- Nhà văn Nguyễn Chánh Sắt ( 1869 - 1947 ) sinh ở Tân Châu - Châu Đốc, tác giả 10 cuốn tiểu thuyết lý tưởng, trinh thám, nghĩa hiệp. Phổ biến nhất là tập Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên ( 1919 - 1920 )
- Nguyễn Trọng Quyền bút danh là Mộc Quán sanh năm 1876 tại làng Thạnh Hòa , huyện Thốt Nốt ,tỉnh Long Xuyên cũ ( nay thuộc tỉnh Cần Thơ ?) trút hơi thở cuối cùng tại nhà thương Châu Đốc năm 1953. Là sọan giả, trong 50 năm ,sáng tác được 85 vở tuồng cải lương được nhiều đòan hát sử dụng như Phụng Nghi Đình, Mạnh Lệ Quân thốt hài, San Hậu, Tây Sương Ký, Tái Sanh Duyên , Vạn Huê Lầu… và 3 truyện thơ . Mộc Quán sử dụng lối ước lệ và tượng trưng của Hát Bội, rút kinh nghiệm của lọai hát tiều và lối hát của Hý Khúc thời Nhà Nguyên ( Mông Cổ ), biến chế thành một lối hát tuồng Tàu cho các nghệ sĩ Việt Nam như Phùng Há, Năm Phỉ, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Thới … ( Nguyễn Phương - 2006 )
- Nguyễn Hiến Lê ( 1912- 1984 ), sinh ở Hà Nội ,viết văn tại Sài Gòn, nhưng sau 1945 lại dạy học lâu ngày ở Long Xuyên, vợ thứ hai là Yên thị Thiệp người Long Xuyên, cho nên khi chết, cốt tro tàn cất giữ ở Long Xuyên , trước khi di dời về Sài Gòn . Sách liên quan đến An Giang nhất là Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, xuất bản năm 1954.
- Vương Trung Hiếu, sinh năm 1959 ở Long Xuyên, năm 2011 còn sinh sống tại Bangkok Thái Lan. Bắt đầu tập viết văn năm 1987. Các tập truyện phổ thông của ông là Tình Khúc Hồng ( 1991 ), Ngày chúng ta quen nhau ( cũng năm 1991 ), Hương Quỳnh ( 1992 ), Đầu Tóc Rối ( 1993 ). Các thi nhân , văn sĩ họa sĩ khác là nhà văn Nguyễn Quang Sáng( Chợ Mới ), nhà văn Anh Đức ( Châu Thành ), nhà văn Trịnh Bửu Hòai ( Châu Đốc ), nhà thơ Viễn Phương ( Tân Châu ), họa sĩ hài hước Chóe ( Chợ Mới )...
Về phía ca sĩ đáng kể nhất sinh quán An Phú - Long Xuyên (năm 1945 ?) là ca sĩ cải lương giọng ngọt ngào Bạch Tuyết . Năm 1961 đã nổi danh với bài ca “ Lá Thắm Chỉ Hồng” và đã được xem là “ Cải Lương Chi Bảo”. Năm 1963, đọat giaỉ thưởng Thanh Tâm. Bạch Tuyết đã hát 400 bài ca cải lương, trong đó nên nhắc thêm các bài “ Kiếp Chồng Chung” “ Tiếng Hát Mường Then” (của Út Trà Ôn ). Bạch Tuyết đã đi trình diễn học thêm ở Vương Quốc Anh , Bulgaria … và là người độc nhất đậu bằng Tiến sĩ Nghệ Thuật nước nhà về ca hát cải lương. Các nghệ sĩ khác , nguồn gốc An Giang, là ca sĩ Đức Tuấn , ca sĩ Phương Trinh, ca sĩ Đông Đào ( Phú Tân ) và các nhạc sĩ Hòang Hiệp ( Chợ Mới ), Song Ngọc ( Long Xuyên )
…
Sơ lược vài đô thị - thị trấn An Giang : Long Xuyên, Châu Đốc, Châu Thành, Tân Châu
Long Xuyên là thủ phủ tỉnh An Giang, cách Hà Nội về phía Nam 1950 km, cách Sài Gòn - TP HCM 189 km, cách biên giới Cam Bốt 45 km . Chia ra làm 11 phường và 2 xã nông thôn. Dân số Long Xuyên năm 2013 trên 368 376 người, và diện tích chỉ có130 km2. Long Xuyên là thành phố phát đạt nhất miền Tây Nam Việt Nam, ngay sau TP Cần Thơ. Đặc điểm thứ nhất Long Xuyên là Viện Đại học An Giang và Trường Đại học Sư Phạm đào tạo giáo viên. Viện Đại học An Giang đứng hàng thứ nhì ĐBSCL, chỉ sau Viện Đại học Cần Thơ, hiện có 8000 sinh viên. Khởi sự là Trường Sư Phạm, được công nhận là Viên Đại học từ năm 2000 . Viện hiện có các khoa Giáo dục, Nông nghiệp, Kinh tế học, Kỷ thuật Thông tin - IT và Chủ Nghĩa Marx - Lê Ninh. Long Xuyên có 3 trường trung học chánh yếu : các trường Thọai Ngọc Hầu, Bình Khánh và Long Xuyên. Trường Thọai Ngọc Hầu nguyên là trường Trung học Long Xuyên, nay có 2000 học sinh, chuyên khoa về các môn Anh văn, Tóan, Hóa học, Vật lý , Văn chương và Sinh học. Long Xuyên là trung tâm của Phật Giáo Hòa Hảo. Nhưng cũng có nhiều nhà thờ Thiên chúa Cơ Đốc. Ngòai ra, còn nhiều dân Long Xuyên theo các phái Phật giáo hay tôn giáo khác . Dân địa phương thường đi siêu thị ngày thứ bảy và ngày chủ nhật. Ngày sinh của cựu chủ tịch Tôn Đức Thắng được tổ chức hàng năm ở Mỹ Hòa Hưng ( Đảo Hổ, Cọp - Tiger Island ). Các món ăn ngon gồm các món tiêu chuẩn Việt Nam thường lệ hay vài biến đổi các món đặc biệt An Giang, như các món cá ba sa, mắm thái và dừa Thốt Nốt. Mỗi năm du khách đi ngang qua Long Xuyên trên đường đi Châu Đốc là nơi dừng chân chánh viếng thăm Căm Bốt, nhưng ít khi nghỉ đêm tại Long Xuyên…
Châu Đốc là một thị xã tỉnh An Giang ngày nay, nằm trên nhánh Sông Hậu ( Sông Sau ) và kinh Vĩnh Tế, cách TP HCM- Sài Gòn 250 km về phía Tây. Từ Sài Gòn đến Châu Đốc cần 6 giờ đồng hồ xe buýt . Chia ra làm 4 phường và 3 xã . Dân số năm 2013 là 157 298 người, chưa bằng phân nữa Long Xuyên, trên diện tích 105.29 km2 , có phần nhỏ hơn thị xã tỉnh lỵ Long Xuyên đôi chút. Về lịch sử, Châu Đốc nguyên là lảnh thổ Vương Quốc Phù Nam, nhập vào nước nhà cách đây chừng 300 năm. Nằm gần Núi Sam, nơi thờ phụng bà Chúa Xứ, mỗi năm vào tháng tư âm lịch. Ba tộc dân Việt, Chăm ( Chàm - Chiêm Thành ) và Khmer Krom sinh sống hòa thuận cùng nhau . Có lẽ nên nhân tiện nói rỏ thêm tộc dân Chàm Châu Đốc, vì đã đề cập phần nào khi nói đến tộc dân chàm ỏ bài Ninh Thuận - Phan Rang. Theo g. s. Nguyễn Thành Liêm ( Châu Đốc, tháng giêng 2006 ) , tòan tỉnh Châu Đốc cũ có 7 thôn ấp cũ người Chăm ở: Koh Ta Boong ( Pháp âm là Kotampong ), Hà Bao, Vĩnh Trường, Phum Sòai, Khánh An, Khánh Bình và Châu Giang . Người Việt miền Nam gọi họ là Chà Và hay Chà Châu Giang. Thật ra họ là người Chàm gốc miền Trung. Vì trốn tránh chiến tranh, họ đã sang sinh sống ở Cam Bốt. Năm 1755, Nguyễn Cư Trinh chiêu dụ họ về vùng Tây Ninh , Hồng Ngự và Châu Giang - Châu Đốc. Năm 1832 , một số người Chăm Phan Rang - Phan Rí theo Lê văn Khôi chống lại triều đình Huế. Thất bại, một số bỏ trốn qua Căm Bốt, một số rút lên Tây Nguyên, một số đến nương ngụ cùng đồng bào Chàm Châu Đốc. Thấy họ giao thiệp với Mã Lai, sang học đạo ở Pattani, lầm tưởng họ là người Mã Lai, mới gọi họ là Chà Và ( Java ) hay Chà Châu Giang.
Ba tôn giáo chánh Châu Đốc là Phật Giáo Đại Thừa-Mahayana Buddhism ( hai tộc dân Việt và Hoa), Tiểu thừa - Theravada Buddhism ( Khmer - Căm Bốt ) và Hồi Giáo Sunni Islam ( Chăm ) . Năm 2003, trên diện tích 100 km2, lúc đó chưa thành lập phường Vĩnh Ngươn, dân số là 112 155 người , đa số đã là tộc dân Việt và Chăm, chỉ có chút ít Khmer Krom. Kinh tế Châu Đốc chuyên sản xuất nhiều lọai nước mắm và “mắm thái Châu Đốc”, nay là nơi xuất cảng cá basa - catfish , du lịch và là một trung tâm buôn bán sầm uất nhờ kế cận biên giới Căm Bốt. Miếu Phước Điền, một vị trí lịch sử chánh thức cũng thuộc thị xã Châu Đốc, là nơi có một khách sạn đáng kể cho vùng . Trong thị xã có nhiều khách sạn khác gần chợ chánh, tiếp đải ân cần với giá phải chăng. Núi Sam nay cũng có nhiều khách sạn, và trên đường lên núi Sam nay cũng có vài khách sạn. Đáng cho bạn nghĩ tới ngũ lại một hai đêm là một trong hai khách sạn nổi - thủy tạ ( floating hotels); một phải qua cầu - foot bridge chỉ đi bộ được và một phải đi đò tới nơi. Có lẽ cũng nên biết là số du khách đến An Giang ( nhất là ngang qua Long Xuyên và nghỉ đêm tại Châu Đốc năm 2005 là 3.8 triệu người, năm 2010 tăng lên đến 4.6 triệu người, chú trọng du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng thu hút nhiều du khách hơn hết…Nhờ du lịch và thương mãi, nay ngành dịch vụ chiếm đến 59,5 % GDP An Giang, trong khi nông nghiệp( nông lâm ngư) chỉ còn 28.4 % .
Thị trấn Tân Châu là huyện lỵ huyện Tân Châu, tỉnh An Giang ngày nay. Thành lập năm 1757, Tân Châu là quận huyện lớn nhất tỉnh Châu Đốc cũ. Năm 1929, tách rời ra khỏi quận Hồng Ngự, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp. Năm 1968, tách rời khỏi huyện Phú Tân (? )- Chợ Vàm và thành lập huyện Tân Châu thuộc tỉnh An Giang. Nâng cấp thành thị xã năm 2009. Thị xã Tân Châu gồm 5 phường và 9 xã . Dân số năm 2009 là 184 000 người, diện tích 159 km2, còn lớn hơn diện tích thị xã Long Xuyên, tuy dân số chỉ bằng phân nữa. Dân số năm 2003 là 159 719, tăng trên 24 000 trong vòng 6 năm. Như vậy, năm 2013 dân số Tân Châu có thể đã trên 200 000. Tân Châu nổi tiếng nhất về tơ tằm. Các làng mạc đều trồng dâu nuôi tằm, đặc biệt ở các xã Vĩnh Hòa, Tân An, Vĩnh Xương, Long Phú. Hàng lụa danh tiếng Tân Châu là lảnh “ Mỹ A”, lọai lò nhuộm bằng trái măc nưa đươc ưa thích, vì hàng đen mướt và không phai màu. Trái mạc nưa, các thập niên 1955- 75, phải mua ở Căm Bốt, nhưng sau này bắt đầu trồng ở nước nhà, không rỏ nay trồng nhiều ít ở Phan Rang , ngòai vùng Châu Đốc. Tên Khoa học của mặc nưa là Diospyros mollis, họ hồng trái thị, trái ka ki Ebenacea, một đại mộc nhỏ thân to 30 - 40cm, trái tròn xanh 1-2m. Gỗ cũng là một lọai gỗ mun tốt.Trái và lá chứa poliquinone, dùng để nhuộm lảnh đen Mỹ A như vừa nói. Nguyễn Thanh Liêm cũng cho biết là Tân Châu có đường tên là Phan Văn Vàng, người Việt mua bán cá sấu ở Miên, đã du nhập khỏang năm 1920 giống lúa nổi, sạ ( rải hột giống ) trong ruộng, mọc cao dần theo mực nước “mùa nước nổi “ từ 1.5m đến 4.5m, không bị ngập chết hết . Nay thì miền Nam không còn trồng lúa nổi nữa, nhờ phát triễn kinh mương ngăn ngừa ngập lũ và phổ biến các giống lúa cao năng ngắn ngày hơn nhiều, và làm nhiều vụ một năm. Miệt Tân Châu - Hồng Ngự vùng Châu Đốc cũ, còn bắt cá linh, một giống cá trắng có vảy nhỏ xuất phát từ Biển Hồ Cam Bốt, cứ ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch thì nở con linh tinh trôi dạt theo dòng nước Cửu Long về miền Châu Đốc -Long Xuyên, xuống tận miền Hậu Giang. Lúc nước hạ vào thượng tuần tháng 10 âm lịch thì chúng ngược dòng Cửu Long trở về Biển Hồ. Cá linh nhiều đến nổi phải dùng làm phân bón, vì ăn không hết, làm mắm hay nước mắm cũng không hết. Cá linh có thể nướng, nấu chua, kho hầm, làm gì ăn cũng béo cũng bùi. Đầu cá linh kho hầm ăn với cơm cháy thì ngon tuyệt.
Huyện Châu Thành là huyện đáng kể nhất các huyện An Giang ngày nay. Năm 2003 ,dân số huyện là 171 498 người, với diện tích 347km2 . Huyện lỵ là An Châu. Tháng tám 1979, huyện Châu Thành X , thuộc tỉnh Long Xuyên cũ, chia ra làm hai huyện Châu Thành và Thọai Sơn. Huyện nhà bao gồm thị trấn huyện lỵ An Châu và 12 xã. Ranh giới giáp 4 huyện khác tỉnh nhà là huyện Tịnh Biên, huyện Châu Phú- Cái Dầu, huyện Chợ Mới và huyện Thọai Sơn - Núi Sập; kế cận là thị xã Long Xuyên. Đất rất bằng phẳng và sông Hậu chia đôi huyện. Các tộc dân huyện , theo thứ tự nhiều ít là Việt Kinh, Khmer Krom, Chăm và Hoa. Hòa Hảo là tôn giáo nhiều người theo nhất huyện nhà.
Tăng gia giao thương, Hợp Tác Căm Bốt -Việt Nam, thay vì hiềm khích chém giết nhau thời Khmer Đỏ
Việt Nam và Căm Bốt chia sẽ 1270 km biên giới chung. An Giang là trung tâm cho ba thành phố - đô thị lớn là Sài Gòn - TP HCM , Cần Thơ và Nam Vang - Phnom Pênh. Và cũng là tỉnh biên giới ĐBSCL, đi đến thủ đô Nam Vang gần nhất, chừng 80 km đường sông từ cửa khẩu quốc tế Vĩnh Xương trên sông Vĩnh Xương ngang qua tỉnh Căng Đan - Kandal ( Căm Bốt ) hay từ đường bộ từ hai cửa khẩu: quốc tế là Tịnh Biên ngang qua tỉnh Takeo - Căm Bốt và quốc gia là Khánh Bình nay có cầu đã khánh thành đi đến Chrey Thom tỉnh Căng Đan. An Giang có cả thảy là 3 cửa khẩu đường bộ và 4 cửa khẩu đường sông đến Căm Bốt , nhưng chỉ cửa khẩu Tịnh Biên là để xe ô tô qua lại và Vĩnh Xuơng là để chuyên chở đường sông. Thỏa thuận kiểm sóat xe cộ, quan thuế v.v... ở cửa khẩu Mộc Bài- Ba Vẹt thuộc tỉnh Tây Ninh vẫn còn khó khăn chưa dứt quyết. Cửa khẩu Dak Rue giữa hai tỉnh Đắc Lắc và Mondulkiri đến cuối năm 2013, vẫn chưa hòan tất hạ tầng cơ sở như dự liệu.
Năm 2001, giao thương Căm Bốt - Việt Nam chỉ đạt 169 triệu đô la Mỹ- USD và năm 2006 là 980 triệu USD. Năm đó, Căm Bốt đứng hàng thứ 16 của các nước nhập khẩu hàng hóa Việt Nam và Việt Nam đứng hàng thứ ba nhập khẩu hàng hóa Căm Bốt, sau Thái Lan và Trung Quốc. Xuất khẩu hàng Việt Nam qua Căm Bốt năm 2006 là tơ sợi và áo quần, plastics, máy computers, đồ điện tử và bộ phận, rau đậu, trái cây, hải sản và đồ điện gia thất. Nhập khẩu thuốc lá, cao su, gỗ và vải vóc. Hai tỉnh An Giang và Tây Ninh chiếm 95% thương mãi ngang qua các cửa khẩu của 10 tỉnh biên giới chung giữa hai nước. Riêng tỉnh An Giang chiếm 87 % tổng số, trị giá 600 triệu USD. Năm 2010, đạt 2.3 tỉ USD. Năm 2011 tăng lên đến 2.8 tỉ USD và năm 2012 là 3.1 tỉ USD. Năm 2013, đạt 3.5 tỉ USD và hy vọng lên đến 4 tỉ USD năm 2014 và 5 tỉ năm 2015. Trên hẳn giao thương Việt - Lào năm 2012 là 866 triệu USD và trong 10 tháng đầu năm 2013 là 817 triệu USD . Việt Nam xuất khẩu sang Căm Bốt gồm có các lọai hàng hóa tiêu thụ, thực phẩm biến chế, mì ăn liền, cà phê, nước mắm, rau đậu, hoa và trái cây, phân bón hóa học, các dụng cụ nông nghiệp và thuốc bảo vệ mùa màng. Việt Nam nhập cảng từ Căm Bốt chánh yếu là các sản phẩm thô- nguyên liệu nông nghiệp như hột điều - đào lộn hột, khoai mì ( sắn ), đậu xanh, đậu nành ( đổ tương ) và mũ cao su. Phải cố gắng đầu tư thêm vào các doanh vụ tại vùng phát triễn kinh tế rộng 26 538 ha, gồm 3 cửa khẩu Việt - Miên là Vĩnh Xương, Khánh Bình và Tịnh Biên, nâng giao thương hai nước lên hàng nhất - hàng nhì, mau đuổi kịp Thái Lan và Trung Quốc.
Trên phương diện Hợp tác phát triễn, ở phiên họp ngày 27 tháng chạp năm 2013 tại Nam Vang - Phnom Penh giữa hai thủ tướng Hun Sen và Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Hun Sen kêu gọi Việt Nam khuyến khích thêm nhiều nhà đầu tư Việt làm doanh vụ ở Căm Bốt, giúp đở hòan thành xây cất đường O’Yadav ở tỉnh Ratanakiri, chia sẽ các nguồn nước sông chung cho hai quốc gia, đặc biệt chung sức định giá ảnh hưởng xây cất các đập thủy điện hai nhánh sông Sre Pok và Sesan. Ngòai ra, thủ tướng Hun Sen còn yêu cầu Việt Nam bán mức điện hai bên đã thỏa thuận và tiếp tục giúp thiết lập thêm 7 trạm ra điô ở các tỉnh Căm Bốt và hòan tất kiểu nhà thương “ Chợ Rẫy” ở Nam Vang ( ?). Thủ tướng Dũng cũng yêu cầu Căm Bốt tăng gia bảo vệ các đầu tư Việt Nam ở Căm Bốt và thông báo cho thủ tướng Hun Sen biết tình trạng điều đình với Trung Quốc về xụ xây cất đường xe lữa ASEAN - Côn Minh, đặc biệt khúc đọan Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước - Việt Nam tới Căm Bốt.
Các khó khăn cho nông nghiệp An Giang
Năm 2013, GDP An Giang tăng thêm 6,58%. Mức tăng nhỏ nhất là lảnh vực nông lâm ngư chỉ tăng 1.52 %, trong khi công nghệ xây cất là 6.34% và dịch vụ 9. 57 %. Trên bình diện cơ cấu kinh tế, năm 2013 nông lâm ngư chiếm 28.74 % GDP tỉnh nhà, cao hơn lảnh vực công nghệ và xây cất chỉ là 12.4% , nhưng thua xa lảnh vực dịch vụ, chiếm đến 59. 13 %. GDP mỗi đầu người là 1 572 USD ( 33 .077 triệu ĐVN ). Cũng nên nhớ tỉ xuất lạm phát tăng 2.72% năm 2013, tuy rằng chưa đến ⅓ tỉ xuất lạm phát năm 2012. Đặc biệt trong qúy đầu 2014, nông lâm ngư lại giảm đi mất 0.66%, công nghệ xây cất tăng 2.84% và dịch vụ tăng 6.54% .
Lúa gạo
Như đã đề cập ở bài khảo luận về tỉnh Kiên Giang - Rạch Giá - Hà Tiên, hòan thành hệ thống tưới tiêu, thóat thủy đê điều ( và đường xá ) chống lũ lụt Tứ Giác Long Xuyên ,diện tích tổng cọng là 470 000 ha,đã giúp tăng gia nhiều sản xuất lúa gao An Giang. Nhắc lại Tứ Giác Long Xuyên đã thực hiện 64 kinh chánh dài 1056 km, 2 313 kênh thứ cấp và tam cấp dài 7347 km, 38 cống lớn và cở trung bình, 1915 cống nhỏ, 319 trạm bơm nước bằng điện cở trung bình , 4 458 km đường đắp cao và đê chống lụt … Hệ thống đê điều Tứ Giác Long Xuyên có hai lọai đê: đê kiểm sóat lũ tổng quát và các đê đường đắp cao chống lũ tháng 8. Đa số các đê chống lũ phần lớn nằm trong vùng thích hợp cho sản xuất lúa, nơi lũ không qúa lớn, như các vùng Thọai Sơn, Châu Thành, Châu Phú …. tỉnh An Giang. Tỉnh nhà có 103 cơ cấu kiểm sóat lũ cả năm, bề dài đê đường là 1020 km, bảo vệ được 40 899 ha làm 3 vụ lúa một năm. Thay vì chỉ trồng được một vụ ( mùa ) lúa nổi từ năm 1955 - 57 đến năm 1990 ( Chương trình Tứ Giác Long Xuyên khởi công năm 1988 ), ngày dài, năng xuất kém, 1.0 - 1. 5t/ ha , phẩm giá gạo xấu. Tiềm năng diện tích trồng lúa An Giang vụ Đông Xuân ( năm 2012 năng xuất đã là 6- 7t/ha ở An Giang ) có tưới tiêu mùa nắng vào khoảng 220 - 230 000 ha, cho thấy còn có thể mở rộng thêm thủy nông, thủy lợi kiểu tứ giác : đê điều, đường xá, cống rảnh, trạm bơm... làm 3 vụ một năm, chú trọng hơn nữa về vụ Đông Xuân. Bộ Nông nghiệp dự trù tăng thêm, đến năm 2020 ở các tỉnh ĐBSCL , chừng 800 - 900 000 ha vụ lúa Đông Xuân cao năng, siêu năng. Năm 2010, An Giang đã sản xuất hơn 3.5 triệu tấn lúa ( thóc), xuất khẩu 600 000 tấn. Năm 2013, An Giang sản xuất 4 triệu tấn lúa và hy vọng tiếp tục xuất khẩu 600 000 tấn gạo( 900 000 tấn lúa ), trong tổng số xuất khẩu là 6.6 triệu tấn gạo .Ngòai tăng cường hệ thống đê điều, kinh mương chống lũ, trạm bơm nước điện tưới tiêu mùa nắng làm vụ Đông Xuân nhiều nơi năng xuất lên đến 10 t/ ha, ngành trồng lúa theo sát các khảo cứu lúa gạo tiên tiến nhất cho tiểu điền Á Đông, được Trung tâm Lúa Gạo Quốc Tế IRRI, Trung tâm Lúa Gạo Ô Môn và Trường Cao Đẳng Nông nghiệp viện Đại học Cần Thơ v.v...ủng hộ liên tục đằng sau, nông dân An Giang thực thi mọi kỷ thuật mới ( cập nhật , bổ sung quan điểm cỗ truyền xưa cũ Nhất Nước , Nhì Phân- phân chuồng, Tam Cần, Tứ Giống ), tăng năng xuất theo khuôn khổ “ Canh tác Tốt Việt Nam hay tòan cầu- Good Global Agricultural Practices, GAP” , bớt phí tổn sản xuất, hợp tác cũng cố nới rộng điền địa cá nhân, da dạng sinh thái ruộng lúa … Chẳng hạn chương trình khuyến nông “ Một Phải ( làm, là dùng giống chứng nhận- certified seed )- Năm Giảm( giảm số lượng hột giống gieo trồng, giảm bớt phân đạm hóa học - nitrogen, giảm thuốc sát trùng, giảm bớt nước tưới tiêu và mất mát hậu thu hoạch -postharvest losses ) các năm 2007 - 2011; chương trình “ Ba Giảm- Ba Tăng “ : sạ thưa 80- 120kg hột giống /ha, hạn chế bón phân đạm hóa học đầu vụ dể tạo ruộng lúa khỏe, giảm số lần phun thuốc trừ sâu nhất là không phun thuốc trong 30 ngày đầu sau khi sạ lúa để bảo vệ thiên địch trong ruộng lúa ( chương trình thành công này ở An Giang đã được IRRI tổng kết để áp dụng ở Thái Lan; từ năm 2010 đến năm 2013, Thái Lan mất 1 triệu tấn lúa mỗi năm vì nạn rầy nâu - brown planthopper ... ) .Từ năm 2009, An Giang lại áp dụng thêm chương trình mô hình “ Cánh Đồng Mẫu Lớn” với sự tham gia tích cực qua “ Hợp tác Bốn Nhà” là nhà doanh nghiệp tạm ứng vật tư cho sản xuất, đến nhà đầu tư máy móc thu họach, các nhà cơ sở biến chế - tồn trữ - thu mua nông sản. Tưởng cũng không nên quên phong trào kiến thiết đồng ruộng theo “ Công nghệ sinh thái”, trồng hoa trên bờ ruộng nhằm thu hút thiên địch, các hoa màu khác như dưa hấu … gia tăng vai trò cân bằng sinh thái trong ruộng lúa, kết hợp với du lịch sinh thái ( theo tiến sĩ Nguyễn Văn Hùynh - 2014 )
Tuy nhiên ngành lúa gạo An Giang cũng như ĐBSCL còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa trên phương diện hạ phí tổn canh tác sản xuất , tăng phẩm gía gạo, tốt hơn, hợp thị trường ngọai quốc hơn, tìm kiếm những nước mới mua gạo nước nhà … Nhắc lại là năm 2011- 2012, Việt Nam đứng hàng thứ năm thế giới, sản xuất 27 triệu tấn gạo , sau Trung Quốc ( 142 triệu ),Ấn Độ ( 99 triệu ), In đô nê xia - Nam Dương ( 37 triệu) và Bangladesh( 34 triệu ) trên Thái Lan ( 20 triệu tấn gạo ), Phi Luật Tân ( 11 triệu tấn gạo ), Myanmar - Miến Điện ( 10.7 triệu) , Nhật ( 7.4 triệu ), Hồi Quốc - Pakistan( 6.7 triệu ), Cam Bốt ( 4.5 triệu ), Hàn Quốc- Nam Hàn (4. 1 triệu ). Riêng các tỉnh ĐBSCL, năm 2014 vụ Đông Xuân đã trồng được 1 600 000 ha ( ? ), hy vọng thu họach gần 11 triệu tấn gạo, tăng thêm 34 000 tấn so với năm 2013 .
Tăng gia năng xuất mà không hạ nổi giá thành, giảm chí sản xuất v.v.. thì càng làm cho thị trường xuất khẩu gạo Việt Nam khó khăn thêm. Đến cuối tháng 2 năm 2014, Việt Nam chỉ mới xuất khẩu được 638 000 tấn gạo trị giá 275 triệu $ USD, giảm 13.5 % về số lượng và 16 % về giá trị so cùng thời gian năm 2013 . Đến giữa tháng hai 2014, Thái Lan đã bán ra ngọai quốc 600 000 tấn gạo và 800 000 tấn tháng 3. Chánh phủ Thái dự trù xuất khẩu 1 triệu tấn mỗi tháng, nghĩa là ở mức 12 triệu tấn năm 2014 , còn hơn năm 2011 Thái xuất khẩu 10.6 triệu tấn. Năm 2012, Việt Nam đã xuất khẩu 7.5 triệu tấn và năm 2013 là 7.6 triệu tấn. Nhắc lại là năm 2002, Việt Nam xuất khẩu 3.13 triệu tấn gạo, tuy đã 2-3 lần hơn mức xuất khẩu thời Pháp thuộc. nhưng sau Thái Lan năm đó đã xuất khẩu 7.35 triệu tấn, Ấn Độ 6.64 triệu tấn, sau cả Hoa Kỳ là 3.81 triệu tấn . Mười năm sau, năm 2012 , Việt Nam thật sự đã xuất khẩu 7.72 triệu tấn gạo gần 2.5 lần hơn, thu về 3.45 tỉ $ USD; năm 2013 cũng xuất khẩu một số lượng tương tự khoảng 7. 6- 7.7 triệu tấn. Đáng cập nhật kiến thức là hai nước tranh thương xuất lúa gạo nay là Thái Lan và Ấn Độ thay chân Myanmar- Miến Điện,trước đây vào thời Pháp thuộc là nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Đáng lo ngại là giá lúa vụ Đông Xuân trong tháng 4- tháng 5- 2014 bổng nhiên trụt mạnh, nhất là vì áp lực của giá gạo Thái Lan xuất khẩu, sau khi tăng đôi chút nhờ chánh phủ chấp thuận mua 1 triệu tấn làm dự trữ tạm thời.Tháng 3 giá lúa ở An Giang 4700- 4800 ĐVN /kg , nhưng chỉ 5 ngày sau là giá trụt xuống chỉ còn 4200 ĐVN . Nông dân không còn chịu bán lúa ở gía này. Theo chủ kho vựa Tịnh Biên, giá lúa dưới 4600 ĐVN/kg thì nhà mua lúa tồn trữ sẽ lỗ vốn. Theo Hiệp Hội Thực Phẩm Việt Nam- Việt Nam Food Association- VFA, trong qúy đầu năm 2014, Thái Lan đã đọat lại nhiều thị trường gạo Việt Nam xuất khẩu trên thế giới và xuất khẩu gạo Việt Nam đã giảm sút 19% vào thời gian này so với năm 2013 và may lắm là sẽ xuất khẩu năm 2014 , 6.2 triệu tấn so với dự tính 6.5 - 7 triệu tấn tháng giêng năm 2014. VFA cho rằng nguyên do giảm sút này là do Thái Lan tái chiếm thị trường Phi Châu, thị trường lúa gạo thứ hai của Việt Nam. Thị trường xuất khẩu lúa gạo lớn nhất nước nhà là Trung Quốc , nay chiếm đến 60% xuất khẩu gạo Việt Nam vào tháng 4 năm 2014. Khác với Thái Lan bán gạo cho Trung Quốc theo các hợp đồng quốc tế, Việt Nam bán gạo về phía Bắc không chánh thức qua các thương gia địa phương ở các cửa khẩu biên giới, theo những số lượng đồ sộ, không có kiểm phẩm chặc chẻ Giao thương với các hảng Tàu còn thêm hiểm nguy có khi không được thanh tóan, vì các hảng nhập khẩu Tàu hay hủy bỏ các khế ước với các hảng Việt Nam, một khi ai đó cung cấp cho họ với giá rẽ hơn. Năm 2013, các hảng Trung Quốc đã hủy bỏ 54 % mọi khế ước ký kết. Mua bán gạo Trung -Việt tiểu thương qua các cửa khẩu khó mà định rỏ số lượng ; và cũng theo VFA các hảng nhập khẩu Tàu thường hay yêu cầu các hảng Việt Nam trộn lẫn gạo phẩm giá kém với gạo Jasmine ( Nàng Hương, NàngThơm Chợ Đào ? ) để bán theo giá gạo Jasmine. Năm 2013, Việt Nam đã bán sang Trung Quốc gần 2 triệu tấn gạo hay 33.2 % tổng sổ Việt Nam xuất khẩu. Trung Quốc là một thị trường gạo nhà xuất cảng nào cũng muốn xô vào . Nhưng Việt Nam đang gặp khó khăn, vì lẽ giá cả lúa ở Việt Nam suy giảm và gạo sản xuất tại nhiều tỉnh ĐBSCL gia tăng. Hai nước nhập cảng nhiều gạo là In đô nê xia và Mã Lai Á, nhưng năm nay họ đã giảm nhập khẩu gạo, vì sản xuất đã gia tăng khá nhiều. Cung cấp gạo trên thế giới cũng gia tăng nhiều. Đáng cho Việt Nam lưu tâm là Thái Lan bắt đầu tích trử gạo từ năm 2011, hầu giữ giá gạo xuất khẩu quốc tế cho cao hơn, nhưng chương trình này thất bại nặng. Từ tháng 10 năm 2011,Thái Lan đã tiêu xài 19.3 tỉ $USD ( 600 tỉ baht ) mua lại gạo hột dài theo giá 700 $ USD /một tấn, trong khi giá gạo Thái trong nước thật sự chỉ là 468$USD và các nhà xuất cảng Thái chỉ thu được 390 $USD / tấn. Tháng 7 năm 2013, Thái bán cho Iran 250 000 tấn gạo trợ cấp thâm thủng ngân sách tài chánh Thái này. Nay Thái Lan ước lượng hiện còn tồn kho 15 triệu tấn. Ấn Độ cũng tăng gia nhiều sản xuất lúa gạo và năm 2013 tiếp tục xuất khẩu nhiều gạo hơn Việt Nam , đến 9- 10 triệu tấn. Năm 2012 , Ấn Độ đã là nước xuất khẩu gạo đứng hạng nhất thế giới, gần 8.0 triệu tấn, trên Việt Nam đứng hạng nhì, xuất khẩu 7.5 triệu tấn. Phi Luật Tân chỉ tăng gia được 4 % mức sản xuất lúa gạo trong 3 năm vừa qua, ít hơn chỉ tiêu là 6 % để đạt mức an tòan lúa gạo. Vì bị bảo tố lụt ngập, bình thường là 20 cơn bảo tố mỗi năm. Năm 2010, Phi Luật Tân nhập khẩu số gạo quán quân là 2.45 triệu tấn. Đầu năm 2014, Cơ Quan Thực Phẩm Quốc gia Phi - National Food Authority, NFA đã ký khế ước mua 600 000 tấn gạo của Vinafood II và sẽ mua thêm 200 000 tấn nữa của Vinafood I, nhờ gíá gạo Việt Nam đấu thầu hạ nhất, so với chẳng hạn công Ty Thái Thai Hua Co. Ltd và công ty Tàu Singsong Hong Kong Ltd. Lô thứ nhất Vinafood I hiến giá là 436$ USD/ một tấn- MT, căn bản C và F, lô thứ hai giá 437.75$ và lô thứ ba giá 439.25$ /MT. Phẩm giá là gạo trắng, hột dài 15 % tấm, xay chà tốt. Việt Nam phải cung cấp đủ số lượng từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2014 . Theo bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, Phi có lẽ phải nhập khẩu 1.4 triệu tấn gạo năm 2014 hay hơn nữa, vì bảo tố cuối năm có thể tàn phá ruộng Phi. Ba thị trường lớn khác cho gạo Việt Nam xuất khẩu là Singapore ( năm 2013 đã tăng thêm 37 % ), Angola ( tăng 30.6) và Hồng Kông ( tăng 22.7% ). Cũng nên chú ý đến xuất khẩu gạo sang Brasil và Mexico - Mễ Tây Cơ.
Vinafood bá cáo là gạo thơm - aromatic rice bán giá cao. Gạo thơm, hai quý đầu năm 2013, chiếm 12.6 % tổng số gạo Việt Nam xuất khẩu, tăng 77.8 % so với năm 2012. Tuy nhiên, nhiều thương gia than phiền là phẩm giá gạo thơm Việt Nam không mấy cao, vì Việt Nam phổ biến trồng quá nhiều giống gạo thơm, lọai gạo hột dài. Tháng 7 năm 2013, giám đốc xuất nhập khẩu An Giang nói rằng thay vì trồng quá nhiều giống, các huyện- xã địa phương nên tụ điểm vào vài giống chánh yếu xuất cảng được mà thôi, đề nghị là lảnh vực lúa gạo chung sức với các Trung tâm Khảo cứu tạo ra vài giống sản xuất đại trà được dài hạn và có một phẩm giá tốt chung như nhau, hầu làm ra một nhãn hiệu thương mãi đặc biệt cho Việt Nam như gạo thơm, hột rất dài , thon nhỏ Basmati ( ? ) Hồi Quốc- Ấn Độ. Bộ Nông Nghiệp và các tổ chức nông dân trả lời là có thể làm được , nhưng các nhà xuất khẩu gạo An Giang phải bảo đảm là mua hết các giống gạo thơm mới.
Cá ba sa, tra… - Pangasius sp ...
Một trong những phương cách đa dạng ruộng An Giang cũng như các tỉnh ĐBSCL, tăng lợi tức nông dân là nuôi cá. Nên nhớ là lợi tức trung bình nông dân trồng lúa gạo chỉ bằng1/3 lợi tức các tiểu điền trồng cà phê( Tây Nguyên và Miền Đông Nam phần )những năm vừa qua, khỏang 20 - 25 USD mỗi đầu người mỗi tháng, 240 - 300 USD mỗi năm, nghĩa là ¼ lợi tức các giới khác. Đúng là giới nghèo khổ nhất tỉnh. Đa dạng canh tác qua nuôi cá tăng thêm lợi tức cho tiểu nông lúa tương đối cũng không nhiều như doanh nhân nuôi cá Pangasius ao hồ , hay đăng quầng , nuôi cá bè ( nuôi cá trong lồng dưới bè ). Năng xuất “ lúa - cá” biến thiên từ 482Kg, 0.482 t- 808kg, 8.08 t kg / một ha - 10 000m2 , nuôi ao hồ từ 183 đến 582 t /ha tùy tỉ trọng thả cá giống con, trong khi các trại gia cầm gia súc nuôi cá là 467 - 1465kg /ha mỗi vụ, và nuôi rào đăng quầng năng xuất có thể đạt 345 t/ha, nếu tỉ trọng thả cá giống lớn. Nuôi cá trong lồng dưới bè thâm canh nhất trên 100kg/ m3/vụ, nghĩa là nếu lồng sâu 2m thì có thể đạt 50 kg/m2/vụ ( 500 t/ ha /vụ ). Vì vậy ở An Giang, cũng như nhiều tỉnh khác ĐBSCL, số tiểu nông nuôi thêm cá chỉ chiếm 30 % tổng số, doanh nhân nuôi cá chiếm 70 %. Diện tích nuôi cá Pangasius An Giang năm là 1063 ha, sản xuất 119 000 tấn. Năm 2005, các tỉnh ĐBSCL nuôi được 3249 ha cá, mức sản xuất là 326 000 tấn. Riêng về cá Pangasius sp . ( cá tra , cá ba sa , cá vồ … ), tiến bộ thật là đáng kể. Theo VASEP, năm 2000, Việt Nam chỉ mới xuất khẩu 170 000 tấn Pangasius, trị giá 40 triệu USD. Năm 2011, tăng 40 lần hơn năm về trị giá là 1.856 triệu USD, số lượng xuất khẩu là 660 000 tấn. Năm 2013, trị giá xuất khẩu Pangasius là 1. 8 tỉ USD , có phần cao hơn đôi chút năm 2012 là năm xuất khẩu bị giảm. Năm 2014, trị giá xuất khẩu dự trù chỉ là 1 750 triệu USD, vì giới hạn kỷ thuật chế biến cho đúng thể lệ điều hòa y tế quốc tế. Xuất khẩu cá Pangasius năm 2013, theo thống kê, chỉ sau Tôm, chiếm 26 % trị giá ngư sản xuất khẩu nước nhà .
Sản xuất Pangasius Việt Nam năm 2011 là 1.151 triệu tấn ( nuôi trên 5 550 ha mọi thể thức ), năm 2012 là 1.2 triệu tấn ( nuôi ở 5610 ha ), năm 2013 là 1, 6 triệu tấn và có lẽ năm 2014 giảm đi khỏang 5 % so với năm 2013 . Đồng Tháp năm 2012, đã sản xuất nhiều cá Pangasius hơn 29, 1 % tổng số so với 24.7% của An Giang, kế tiếp là Cần Thơ ( 12.7% ), Bến Tre, Vĩnh Long, Tiền Giang. Việt Nam xuất khẩu mọi lọai Pangasius đến 149 quốc gia và lảnh thổ quốc tế, nhưng chỉ mới xuất khẩu phi lê pangasius đông lạnh - frozen pangasius fillets gần 350 000 tấn, 9 tháng đầu năm 2013, đến gần 70 quốc gia, tăng 20% cùng thời gian năm 2012 . Tuy Việt Nam vẫn đứng hàng nhất thế giới xuất khẩu Pangasius, nhiều quốc gia Á châu khác cũng tăng thêm nguồn cung cấp. Hoa Kỳ là nước mua nhiều cá Pangasius ( phi lê và các chế biến khác ) Việt Nam nhất, chiếm đến 23 % trị giá, tuy sản lượng suy giảm biên tế ( giảm 0. 5 % ). Hoa kỳ nhập khẩu phi lê cá này phần lớn từ Việt Nam ( 94 % ). Giá trị nhập khẩu phi lê vào Hoa Kỳ tăng 82%, tuy giá trị giảm đi 9% so với năm 2012. 27 nước Hiệp Hội Âu Châu - EU nhập khẩu 104 000 tấn phi lê pangasius đông lạnh , giảm đi chút ít so với số lượng 106 200 tấn năm 2012. Tây Ban Nha là nước nhập khẩu phi lê nhiều nhất của EU , mức nhập khẩu giảm 1% so với năm 2012. Nhập khẩu cũng giảm bớt ở Hà Lan, Đức, Ý, Ba Lan và vài thị trường EU khác.
Nhưng các thị trường đang trổi dậy ở Đông Âu như Slovenia, Slovakia, Lithuania và Estonia tăng gia nhập khẩu. Thị trường tháng giêng 2014 ở Á Châu mua nhiều cá Pangasius ăn vào dịp Tết, tỉ như thị trường cá sống ở Kuala Lumpur, giá đến 37 - 105 USD/kg. Các khách sạn hải sản ở đây bán Pangasius sống theo giá 23- 28 USD / kg. Chín tháng đầu năm 2013, Singapore, Hồng Kông, Thái Lan, Trung Quốc, Nam Hàn, Ấn Độ và Nhật đã mua 41 000 tấn phi lê pangasius đông lạnh Việt Nam, tăng 68 % so với cùng thời gian năm 2012. Các vấn đề then chốt cho các doanh nhân chế biến và xuất khẩu Pangasius nay là các phí tổn hậu cần - chuyễn vận, nhân công lao động, các tiêu chuẩn và phẩm giá.
Việt Nam nhập khẩu nhiều đậu nành và bắp Hoa Kỳ để làm thực phẩm cho gia súc , gia cầm và nuôi cá thâm canh. Cả hai lòai hoa màu đa canh ruộng lúa này đều có thể khuếch trương ở ĐBSCL và quốc gia Căm Bốt láng giềng, với điều kiện tăng gia khảo cứu, năng xuất và thiết lập các chương trình phổ biến Viêt GAP thích nghi như về phần lúa gao đã đề cập trên. Nên biết là năng xuất bắp - ngô Việt Nam trung bình 5t/ha ( 3 lần hơn thời xưa ), nhưng chỉ mới bằng phân nữa năng xuất có thể đạt dễ dàng là 10 t/ha. Năng xuất trung bình bắp hột ở Hoa Kỳ ngày nay là 20 t/ ha. Các đê đường, kênh mương tưới tiêu, thóat nước, chống ngập lũ và sạt lỡ hay, làm khu xanh hay phát triễn du lịch sinh thái ... phải lựa chọn tích cực hơn các cây họ đậu đa niên năng xuất cao, nhiều protêin … khi tỉa lá, tĩa cành hàng năm ( ngoai các lọai điên điễn hoa vàng , so đủa….),bổ sung hột đậu nành nhập khẩu làm thực phẩm động vật . Chế biến cá Việt Nam sử dụng các hệ thống cũ lỗi thời thiếu đồng nhất, thời gian chế biến quá dài, lảng phí, tiến trình cân và gói hàng không kiểm soát nghiêm ngặt và không có phần mềm trực tuyến - online software . Các nhà máy kiểu tân tiến hơn sẽ giúp doanh vụ chế biến Pangasius Việt Nam làm ngắn lại thời gian chế biến , tự động hóa phân phối và chuyên chở , giảm thiểu thời gian đông lạnh , và như thế cải thiện hiệu năng chế biến .
…
Đẩy mạnh hơn nữa lảnh vực công nghệ và xây cất
Những năm gần đây, Chỉ số Cạnh Tranh Tỉnh- Provincial Competitiveness Index ,PCI của An Giang theo xếp hạng của Phòng Thương Mãi và Công Nghệ Việt Nam - VCCI tăng trưởng mau lẹ hơn các tỉnh ĐBSCL và trong nước. Năm 2012, An Giang đứng hàng thứ nhì trong PCI của 63 tỉnh và Thành phố Viêt Nam chỉ sau tỉnh Đồng Tháp. Nhưng năm 2013 lại rớt xuống hàng thứ 23, PCI tỉnh mất đi 4 35 điểm, chỉ còn 59.07 điểm, làm tỉnh An Giang sửng sốt, ngạc nhiên. Khiến Hội Đồng Nhân Dân Tỉnh phải thiết lập Một Ủy Ban Nghiên Cứu, phân tích PCI 2013 và cải thiện PCI cho tỉnh, kể từ tháng 5 năm 2014 và sau đó.
An Giang hiện có 7680 doanh vụ họat động. Tổng số đầu tư là 33 234 tỉ đồng VNĐ. 502 dự án nội địa đã được cấp chứng chỉ đầu tư trị giá 39 500 ĐVN. 18 dự án ngọai quốc đầu tư trực tiếp tư bản đăng ký gần 55 triệu đô la Mỹ - USD, trong số này 12 dự án đã họat động. Ngòai ra hầu hút dẫn thêm đầu tư, An Giang đã dự trù xây dựng 25 công viên công nghệ- IP , một cụm công nghệ và thủ công nghệ - industrial and handicraft cluster diện tích 937 ha và một vùng phát triễn kinh tế biên giới diện tích 26 583 ha, gồm ba cửa khẩu Vĩnh Xương, Khánh Bình và Tịnh Biên như đã kể.
An Giang mong muốn hổ trợ và hợp tác đầu tư vào những dự án then chốt sau đây:
- Dự án xây dựng hệ thống thoát nước và chửa trị nước phế thải ở Tân Châu: dung tích 12 000 m3 / ngày đêm, tổng cọng đầu tư là 562 tỉ VNĐ, theo thể lệ đầu tư ODA
- Hệ thống thoát nước và chửa trị nước phế thải thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân: dung tích 2 000 m3/ ngày đêm, đầu tư 182 tỉ ĐVN
- Hệ thống thóat nước và chửa trị nước phế thải ở thị trấn Tri Tôn “ dung tích 4 500 m3, đầu tư 157 tỉ ĐVN
- Các dự án chống xói mòn, trung tâm thoát thủy núi và nước cống ở trung tâm huyện Tịnh Biên : dung tích 9000 m3, đầu tư 302 tỉ ĐVN
- Nhà máy trị phế thải ở thị xã Long Xuyên: dung tích 300 tấn/ngày, đầu tư 585 tỉ ĐVN
- Nhà máy trị phế thải ở huyện Phú Tân: dung tích 100 t / ngày, đầu tư 234 tỉ ĐVN
- Thiết bị La Bô, Viện Đại học An Giang, đầu tư 102 tỉ ĐVN
- Dự án Trung tâm Kỷ thuật Sinh học -Biotechnology, diện tích 36,78 ha, đầu tư 102 tỉ ĐVN
- Phi trường An Giang: diện tích 243,28 ha, khả năng giai đọan 1 là 30 000 hành khách một năm và thể tích chuyên chở 100 tấn hàng hóa; giai đọan 2 là 80 000 hành khách và 300 tấn hàng hóa .
- Hạ tầng cơ sở cho vùng đô thị Tây Sông Hậu: diện tích 65 ha, đầu tư 423 tỉ ĐVN
- Công viên tiêu khiển Mỹ Khánh, thị xã Long Xuyên: diện tích 250 ha, đầu tư 28. 128 tỉ ĐVN
…
( Irvine , Nam Ca Li- Hoa Kỳ, ngày 15 tháng 6 năm 2014 )
|