.
  Lai Châu
 
23/10/2014

Cập nhật  về tỉnh Lai Châu, một tỉnh Vùng  Tây Bắc ( Lai Châu , Điện Biên, Sơn La , Hòa Bình, tộc dân Thái Trắng( phụ nữ vạt thân đến eo áo phụ nữ màu trắng, thay vì màu xanh đậm hay màu đen áo phụ nữ Thái Đen) tập hợp Sipsong ChuThái  đông gần gấp đôi tộc dân Kinh , tỉ trọng dân số thấp nhất, còn nghèo khổ nhất nước , cần phát triễn thêm thủy điện hệ thống sông Đà tiếp nối đập thủy điên Sơn La  lớn nhất Đông Nam Á , công nghệ đất hiếm đặc biêt ở Đông Pao- Phong Thổ , xứ hoa đào Sa Pa (rải rác hơn đào Mẫu Sơn Lạng Sơn ,ít thắm đỏ hơn đào Nhật Tân Hà Nội) và dặc biệt là Lễ hội Hoa Ban- Bauhinia, Orchid Tree  festival, đặc sắc văn hóa địa phương cơ hội trai gái làng- bản găp nhau, hiểu biết nhau hơn , khởi nguyên văn minh Sơn Vi cư dân sống trong hang động, tạo ra văn minh Hòa Bình – Bắc Sơn sau đó…. 


GS Tôn thất Trình                                                                                

. .. Tây tiến đòan binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá  dữ oai hùm

Mắt trừng gởi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm .

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh .

Áo bào thay chiếu anh về đất,

Sông Mã gầm lên tiếng độc hành…

( Tây Tiến- Quang Dũng, 1918- 1988 )                           

                    Vị trí, diện tích , dân số, đơn vị,  hành chánh, thành phần các tộc dân…

                   Lai Châu là một tỉnh mới, chỉ bằng  phân nữa tỉnh Lai Châu cũ diện tích 16 919km2 , khi chia đôi làm thành tỉnh Lai Châu mới và tỉnh Điện Biên vào năm 2004.  Diện tích Lai Châu ( mới )  nay chỉ còn 9 059.4 km2 ( 3 497.9 dặm Anh vuông ). Lai Châu cũng không còn huyện cực tây nhất nước nhà, nay là huyện Mường Nhé ( Nhié ?  ) với làng cực tây A Pa Chải thuộc tỉnh Điện Biên. Tọa độ tỉnh này là 2200’  vĩ tuyến Bắc và 1030 kinh tuyến Đông. Lai Châu có một thị trấn tỉnh lỵ là thị xã Lai Châu  và  5 huyện : Mường Tè( thị trấn là Mường Tè), Phong Thổ ( thị trấn là Phong Thổ), Sìn Hồ (thị trấn là  Nậm Hàng), Tam Đường ( thị trấn là Tam Đường ) , Than Uyên và Tân Uyên ( năm 2008 huyện Than Uyên chia ra thành hai huyện là Than Uyên ( thị trấn làThan Uyên)  và Tân Uyên( thị trấn là Mường Kim ?). Huyện Than Uyên nguyên thuộc tỉnh Hòang Liên Sơn  gồm 3 tỉnh là Lào Cai , Yên Bái và Nghĩa Lộ .Than Uyên là một huyện tỉnh Nghĩa Lộ  một tỉnh thành lập  tỉnh  cuối năm 1962 , sau đó là một huyện tỉnh Lào Cai cho đến tháng 10 năm 1991 . Khi thành lập tỉnh Lai Châu mới ngày 01/01/2004 , Than Uyên tách ra khỏi tỉnh Lào Cai và trở thành một huyện tỉnh Lai Châu mới. Từ tháng 05/ 2008, Than Uyên lại tách ra thành hai huyện là Than Uyên và Tân Uyên, phía Bắc tỉnh Lai Châu là huyện Than Uyên, phía Nam tỉnh là huyện Tân Uyên   ).  Dân số năm 2007 là  330 500 nguời và năm 2010 là  382 400  người.  Nay có lẽ đã trên 400 000 người, vì mỗi năm dân số Lai Châu tăng lên trên 10 000 người

                     Lai Châu gồm 23 tộc dân. Đông Nhất là  Thái Trắng năm 2000 chiếm khỏang 36 % dân số tỉnh , rồi đến Mèo – Hmong( 25 %)  và Kinh ( 19.5 %)  . tiếp theo là  Dao ( Mán ),  Khơ –Mú , Hà Nhì , La Hủ , Giáy , Lào , Lự, Mảng , Phù Lá, Kháng, Tày , Cống , Nùng , Si La , Mường , La Hủ và Lô Lô,   cùng môt số tộc dân thiểu số ít người khác.  Tiếng nói các tộc dân Lai Châu gồm các ngôn ngữ Hmong -Miến dân Hmông – Mèo nói , các ngôn ngữ Kra tộc dân Than Uyên nói , ngôn ngữ Miến Tạng – Tibeto Burman   các tộc dân Si La, Cống, La Hủ vùng Mường Tè,  và Hà Nhì Mường Tè- Phong Thổ nói, cùng các ngôn ngữ  Nam Á – Austroasiatic , tộc dân Kháng vùng Mường Tè, Phong Thổ, Than Uyên nói. Nhắc lại là tộc dân Thái thuộc họ ngôn ngữ Nam Á , nhóm Tày – Thái hiện có đến 2.5 triệu người ở Việt Nam gồm luôn cả tộc dân Tày đông nhất ở tỉnh Cao Bằng , tộc dân Thái đông nhất ở tỉnh Sơn La  và Nùng đông nhất ở tỉnh Lạng Sơn, Sán Chay đông nhất ở tỉnh Hà Tuyên ( nay là Hà Giang và Tuyên Quang )  và các tộc dân ít người là Giáy,  Lào, Lự . Còn tộc dân H’Mông ( đừng lầm với tộc dân M’Nông ở các tỉnh Tây Nguyên ) hay Mèo  cũng thuộc họ ngôn ngữ Nam Á và làm ra nhóm H’Mông – Dao ( Mán ) có đến 800 000 người ở nước nhà.  Tộc dân M’Nông  cũng ở họ Nam Á ,  nhưng thuộc nhóm Môn – Khmer ( Khơ Me ) , đông đến trên 1300 0000 người; ở miền Bắc Việt Nam là các tộc dân ít người Lai Châu như Mảng , Kháng .  Nhóm Thái Việt Nam chia ra làm ba :  Thái trắng ở Lai Châu   và ở huyện  Quỳnh Nhai – Sơn La, Thái đen  cư trú khắp tỉnh Sơn La, Thái đỏ   tập trung ở hai huyện Mộc Châu và Yên Châu tỉnh Sơn La .  Khác biệt giữa các nhóm Thái  là ở trang phục phụ nữ  và kiểu cách dựng mái nhà sàn.  Vạt thân trên đến tận eo áo phụ nữ Thái trắng màu trắng . Còn áo phụ nữ Thái đen  màu đen hay màu xanh dương đậm, thắt lưng và  khăn đội đầu cũng màu này. Nghệ thuật làm khèn bè ( khèn là bộ nhạc cụ thuộc bộ hơi , cấu trúc khá phức tạp , gồm nhiều ống trúc xếp cạnh nhau , hình bắp chuối làm hộp cộng hưởng ) là lọai khèn Thái  có 12 -14 ống bó thành hai hàng ( trong khi khèn H’Mông -Mèo chỉ có 6 ống) và trồng cánh kiến đỏ đã nổi tiếng vượt ra ngòai phạm vi tỉnh Sơn La.        

                Lai Châu cũ, trước năm 2004 (Điện Biên và Lai Châu mới ) là một tỉnh  miền núi Tây Bắc xa nhất phía tây bắc nước ta. Vùng Tây Bắc nước nhà gồm các tỉnh: Lai Châu, Điện Biên, Sơn La và Hòa Bình.  Phía bắc, Lai Châu cũ giáp với tỉnh Vân Nam – Trung Quốc . Phía đông và đông nam  giáp các tỉnh Lào Cai , Sơn La , phía tây và nam giáp nước  Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào . Tỉnh Lai Châu mới không còn giáp  nước Lào nữa, vì huyện Mường Nhé, có làng cực tây nhất nước nhà là A Pa Chải, gần biên  giới ba nước ( Lào , Việt và Trung Quốc ) nhất,  nay thuộc tỉnh Điên Biên . Miền tây nam và miền nam  tỉnh, nay giáp phần lớn tỉnh Điện Biên. Thị xã Lai Châu,  dân số 55 000 người năm 2010, cách thủ đô Hà Nội 402 km về phía Tây Bắc. Giao thông trong tỉnh chánh yếu là đường bộ vì Lai Châu không có sân bay, không có cảng sông . Quốc lộ số 12  nối thị xã Điện Biên Phủ  qua cửa khẩu biên giới Ma  Lù Thàng  ngang qua Lai Châu và quốc lộ số 4D nối  thị xã Lai Châu  với thị trấn Sa Pa. Trạm xe bút liên  tỉnh chỉ cách  trung tâm thị xã Lai Châu chừng1 km phía trái đường bộ dẫn đến Sa Pa,  chở búyt đến nhiều nơi như Điện Biên Phủ, Hà Nội, Lào Cai, Mường Tè, Sìn Hồ …Chuyến búyt dân chúng hay đi nhất chở đến Lào Cai và ngừng ở Sa Pa. Từ Hà Nội cũng có thể lấy xe búyt đi Lào Cai ở các trạm Giáp Bật và Mỹ Đình.  Du khách thường đến Lai Châu bằng xe mô tô – xe gắn máy, tuy rằng đây là một thách thức lớn và một thú vui  thưởng lãm. Vì dọc đường  du khách có thể ngắm nhìn những cảnh quan đẹp đẻ và kỳ diệu và có thể ngừng  bất cứ lúc nào.

                  Suôi dòng thời gian                                                                      

…  Trên Tây Bắc, ôi mười năm Tây Bắc !

Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng

Nơi máu nhỏ tâm hồn ta thấm đất

Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân …

…   Anh nắm tay em, cuối mùa chiến dịch

Vắt xôi nuôi quân  em giấu giữa rừng,

Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch

Bửa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương …

( Tiếng Hát Con Tàu, Chế Lan Viên 1920 – 1989 )

              Khởi  nguyên văn minh Lai Châu có thể là  văn hóa Sơn Vi , cư dân sống trong các hang động đá vôi hay trên các gò đồi.  Công cụ  văn hóa Sơn Vi được chế tác từ đá cuội,  đá quarzit,  tuổi trên  20 000 năm đến 11 000 năm trước Công Nguyên – BC. Thành tựu  đáng kể nhất của các nhà khảo cổ người Pháp ở Việt Nam là đã phát hiện ra văn hóa Hòa Bình -Bắc Sơn vào những năm 1920 của thế kỷ thứ 20, tiếp tục trực tiếp văn hóa Sơn Vi. Như chúng ta đã biết qua,  con người cỗ Hòa Bình - Bắc Sơn,  đã giã từ từng bước sinh sống bằng hái lượm, săn bắn qua  cuộc sống sản xuất nông nghiệp sớm nhất của nhân lọai, với những  công cụ được mài lưỡi; về sau nữa  là đồ gốm ra đời.  Từ năm 1960 đến nay, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện hàng trăm di tích, từ sơ kỳ thời đại đồng thau  đến thời đại sắt sớm trên lưu vực sông Hồng, thượng nguồn Hòang Liên Sơn( bao gồm cả tỉnh Lai Châu ) đến đồng bằng ven biển và  lưu vực sông Mã . Hệ thống các di tích này có sự diễn biến liên tục từ giai đọan Phùng Nguyên mở đầu qua giai đọan  Đồng Dậu, Gò Mun đến đỉnh cao Đông Sơn, đã được  một số nhà khảo cỗ học  gọi là văn minh Sông Hồng, văn minh của người Việt cỗ. Rồi dẫn đến cách đây 4000 năm  hình thành nhà nước đầu tiên của Việt Nam  là  nước Văn Lang của các vua Hùng ở miền Bắc.        

             Tỉnh Lai Châu nguyên là một tập hợp  tự trị của tộc dân Thái trắng có tên là Sipsongchuthai. Sipsong là từ phát nguyên giọng Hán Việt thổ âm  là Thập- Mười và, Song- Một cặp Một đôi. Đọc theo tiếng Anh là “  Twelve Thái  Chiefdom- Mười hai Đầu mục, Thủ lảnh”. Chủ ( Chu,Châu ) có nghĩa theo  Hán Việt là Chủ - Master , phát âm theo  ngôn ngữ Thái là Lu .  Thập niên 1880(s ),  Pháp nhập Sipsongchuthai vào  Đông Pháp- French Indochina  và sau đó trở thành  một thành phần nước Việt Nam.  Những tộc dân Thái,  nguyên quán từ vùng cao  Dương tử - Yangzi ( ? )  tràn xuống tận châu thổ sông Menam và thung lũng sông Brahmapoutre  đến Biển Đông.  Trong khi tộc dân Kinh -Việt chiếm cứ châu thổ và các vùng bờ biển, các tộc dân Thái tiến chiếm các thung lũng  hậu phương,  đằng sau bán đảo Đông Dương.  Vương quốc Xiêm - Tiêm La  lớn mạnh ở miền trung bán đảo, lưu vực sông Menam.Ở miền Đông bán đảo , tộc dân Lào  xuôi dòng thung lũng sông Cửu Long, nhưng sau khi thống nhất một thời gian ngắn ngủi thành Lan Thương (?tên Hán Việt của Cửu Long ) –Lan Xang, phân chia ra thành 3 tiểu quốc  cạnh tranh nhau là vuơng quốc Lảo Qua – Luang Prabang , ở miền Bắc Lào, Viên Chăng – ( Vạn Tượng ) Vientiane ở miền Trung và Champassak ở miền Nam.   Thật ra theo Hồ Bạch Thảo, năm 1040 vua Lý Thái Tông đã  sai Phùng Trí Năng đi bình định vùng này và tiến thêm đánh  chiếm Ai Lao. Thời Trần Anh Tông (1301)  quân Ai Lao sang cướp phá miệt  sông Đà ( Đà Giang), tướng Phạm ngũ Lảo  giao chiến  bắt được nhiều giặc ở Mường Mai, huyện Mai Châu , tỉnh Hòa Bình ngày nay. Năm 1479,  đời vua Lê Thánh Tông ,quân ta đánh Ai lao  đến tận vùng  “Tam giác Vàng ( thuốc phiện)”tỉnh Chiang Rai – Thái Lan, sông Trường Sa – Miến Điện ( vùng tộc dân Shan, Miến Điện ) và vương quốc Bắc  Lào  Lảo Qua - Luang Prabang .    Vụ đánh chiếm này bị  vua nhà Minh đưa văn sắc sang phản đối, nhưng thời vua  Lê Thánh Tông nước nhà cường thịnh, nhà Minh phải bỏ qua  chống chế của Vua Lê  rằng tổng binh và trấn thủ Vân Nam  báo tin sai.  Năm  1827, nước Nam Chướng thông đồng với Tiêm La, thường  sang quấy nhiễu đất Trấn Ninh. Tù trưởng Chiêu Nội xin đem đất  Trấn Ninh nội thuộc  Việt Nam. Vua Minh Mạng  phong cho Chiêu Nội làm  Trấn Ninh Phòng Ngự Sử. Các đất Tam Động  và Lạc Phàn (  trước thuộc về Vạn Tượng ) Triều đình nhà Nguyễn Phước  chia những đất này ra làm 2 phủ: Trấn Tĩnh và  Lạc Biên. Năm đó , các xứ Xà Hổ, Sầm Tộ, Mường Sọan, Mang Lan, Trinh Cố, Sầm Nưa, Mường Duy, Ngọc Ma  đều xin nội thuộc . Vua chia đất này ra làm  3 phủ :  Trấn Biên, Trấn  Định , Trấn Man . Thị xã Lai Châu nhỏ nhắn nằm ở ngã ba , nơi hội lưu của Ngòi Nậm Na với Sông Đà, trên một thung lũng dài ba mặt là núi, trên vách núi bên bờ sông Đà còn một bia đá từ năm 1432 ghi lại dấu tích của Lê Lợi trên đường đánh giặc.   Đời vua Lê Thánh Tông,  chúng ta vẫn còn giữ vững vùng này.  Khi  Mạc Đăng Dung tiếm ngôi nhà Lê năm 1527, An Thành Hầu  Nguyễn Kim đưa con em tránh sang Ai Lao, được vua  Ai Lao Sạ Đẩu cho ở  Sầm Châu ( vùng Sầm Nưa, nay thuộc tỉnh Hứa Phan –Lào) và có lẽ thế lực tràn đến tỉnh Sơn La, Lai Châu và luôn cả tỉnh PhongSaLi – Lào ngày nay.

  Người Thái gọi Điện Biên Phủ nguyên thuộc tỉnh Lai Châu cũ là Mường Then hay Mường Thanh , theo tiếng địa phương là Mường Trời. Nhiều tên đất đai  Điện Biên mang dấu vết thần thọai,  tộc dân Thái xem là tổ tiên Người Khổng lồ - Ải Lậc Cậc do Then ( Trời ) sai xuống Mường Thanh cứu vớt dân lành, sau nạn hồng thủy. Di tích lều nghỉ của Ải nay  là xã Đòan Kết. Dấu chân Ải quả mạ nay là cánh đồng Mường Thanh. Vùng Ải đánh vãi Thanh  nay là núi Pú Thán, xã Mường Phăng . Trên đường đi đến của khẩu Tây Trang( thuộc tỉnh Điện Biên ) ở biên giới Lào – Việt, ngay giữa hồ Uva  còn di tích câu chuyện những khóm “Khau cút”vươn dài sợi dây làm thang nối liền trời và đất. Hơn hai trăm năm trước (1750?), tướng giặc Phẻ ( Phạ, Trời ) là Tín Tòng khét tiếng tàn ác , từ phía tây tràn sang chiếm đóng Điện Biên. Tín Tòng tự xưng là  Chẩu Phạ (chúa Trời)  vơ vét, đàn áp dân lành, bắt trẽ con  quăng vào vũng bùn, tháo nước cho ngập chết . Nước cạn  xương phơi trắng cánh đồng nay gọi là Tồng Khao, có nghĩa là đồng trắng. Dân chúng phải dời qua cánh đồng Hồng Cúm  phải vứt bỏ   các “ cúm “ ( các hòm đựng  đồ vật , của cải đan bằng tre mây)  quá nặng  để lo thóat thân. Từ đấy  cánh đồng này  được gọi là  Hồng Cúm – Khe Cúm. Thời đó có  hai người dân thường ở Điện Biên tên là Ngãi  và Khanh không chịu sống nhục,  đứng lên hô hào trai tráng các bản Thái , Xá , Lào mài gươm , gia nhập   nghĩa quân Hòang Công Chất, và được  phái đi tiến công  giặc Phẻ Tín Tòng ở địa điểm trên đồi  Pú Vằng. Nghĩa quân  Hòang Công Chất là cuộc khởi nghĩa nông dân  các năm 1739- 1769. Thời này ở xứ Đàng Trong là thời chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát ( 1738- 1765 ) còn ở Bắc Hà - xứ Đàng Ngòai là thời Minh Đô Vương Trịnh Doanh, mất năm 1767, con là  Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm  nối vị. Năm 1754,  nghĩa quân Hòang Công Chất đại thắng giặc Phẻ  chiếm thành Sam Mứn ( Thành Tam Vạn )  ở phía bắc Mường Thanh. Thành Sam Mứn  do người Lự đắp từ thế kỷ thứ 13 có thể chứa 30 000 gia đình bao gồm nhiều xã hiện nay mà trung tâm là  xã Sam Mứn. Thành nằm sát ba ngọn núi Nàng Nòn – Nàng Ngủ,  Tạo Nòn- Tạo Ngủ và Pú  Huồi Chọn- Suối Chọn, bên cạnh hồ U Va.   Hòang Công Chất mở rộng   hệ thống  thành lũy này ra tận   bản Phủ nay  gọi là  thành Chiềng Lê , nay còn di tích  ở xã Nong Hẹt.

                 Năm 1870, Đèo văn Trị thủ lảnh  của SipsongchuThai  cùng “ Giặc Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc” ( là Lưu Nghĩa bộ hạ của Ngô Côn, Thái Bình Thiên Quốc ) chống lại thực dân Pháp xâm lăng, đặc biệt ở huyện Than Uyên, nguyên là  một châu ( huyện ít dân )  thuộc tỉnh Hưng Hóa ( ? )  do triều đình  vua Tự Đức thiết lập. Ngày 20 tháng 11 năm 1886, dân quân  nổi dậy tấn công mảnh liệt quân xâm lăng Pháp tại  Cơ Mương Lay, nay thuộc tỉnh Điện Biên. Và Pháp thuộc địa  phải chấp nhận vùng tự trị Thái( ? )  ở Lai Châu – Điện Biên.  Năm 1909, Pháp thành lập tỉnh Lai Châu, lúc đó gồm Châu Lai, châu Quỳnh Nhai( nay  thuộc tỉnh Sơn La )  và châu Điện Biên.  Ngày 20 /02/1920,  Pháp nhập Than Uyên vào tỉnh Yên Bái.  Bản Nà  - Mường Kim, huyện Than Uyên là một căn cứ quan trọng du kích  kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lăng  Việt Nam  sau 1945, từ năm 1950 đến năm 1951và Than Uyên được giải phóng ngày 15/10/ 1952 . Mường Kim cũng là nơi Việt Minh  thiết lập  đầu tiên đảng tỉnh Lai Châu  ngày nay. Năm 1954, rừng núi  Điện Biên Phủ, nguyên thuộc Lai Châu cũ,  đã ghi lại một chiến công  hiển hách thắng thực dân Pháp, nhưng vì đã có nhiều người đề cập rồi , nên chúng tôi không nhắc tới ở  đây nữa.                 

                    Địa hình                         

                   Lai Châu  cũ sau 2004 chia hai ra thành tỉnh Lai Châu mới( nhận thêm huyện Than Uyên  của Lào Cai) và tỉnh Điện Biên. Tỉnh Lai Châu  mới  là một vùng núi cao Thượng Du Tây Bắc, phía bắc sông Đà.  Các rặng núi giữa sông Hồng và sông Đà là  các nối dài  theo hướng đông nam của núi và cao nguyên Vân Nam - Trung Quốc, có những đỉnh cao trên dưới 2000m, thậm chí vượt quá 3000m. Nổi bật  chạy theo hướng tây bắc- đông nam là dãy Hòang Liên Sơn hùng vĩ, nằm ở phía đông tỉnh,  dài gần 80 km  chứa đỉnh Phăng Xi Păng – Fan Si Pan cao nhất  Việt Nam  đến 3143m. Từ mỗi dãy núi lớn lại có nhiều nhánh núi nhỏ  phân ra theo nhiều hướng khác nhau. Phía bắc có đỉnh Pú Sì Lung  cao 3076m. Phía tây là đỉnh Pú Đen Đinh ( nay thuộc tỉnh  Điện Biên ) cao 1886m và dãy Pú San Cap, phía bắc thị xã Lai Châu, cao 1904m, kéo dài 50- 60 km.  Từ thị xã Lai Châu đến thị trấn Mường Lay- tỉnh Điên Biên là một phong cảnh ngọan mục nhất  của vùng Tây Bắc xa vời. Những núi đá vôi và những cao nguyên có  qúa trình xâm thực, bào mòn xảy ra rất mạnh, tạo thành các dạng hình cácxtơ độc đáo. Làm ra một “ Hạ Long trên Cạn – Halong Bay on the Land” thứ hai đất nước với những đỉnh núi đá vách dựng đứng  hiện ra  từ xa các thóang xanh- xám mù sương, và một ngày đẹp trời có thể quan sát những đĩnh núi lớn rộng hơn, bên kia biên giới với Trung Quốc. Vì bị cấm không được lui tới,  du lịch tình cờ đến gần biên giới Trung Quốc – Việt Nam, chỉ xảy ra quanh thị xã Lai Châu mà thôi. Kiều dân ngọai quốc không được đi ngang qua các cửa khẩu biên giới Lai Châu; cũng như nhiều cửa khẩu Lai Châu tại  biên giới với Trung Quốc hiện là những vị trí đồn binh quân sự tỉ như Ma Lù Thàng- Pa Nậm Cúm ( Cung?  ) trên quốc lộ 12, cách thị xã Điện Biên Phủ 195km về phía bắc tỉnh Điện Biên, môt vị trí có bổn phận gìn giữ an ninh cho 13 km biên giới Việt Trung, có đường nhỏ dẫn tới thị trấn Tiêu Sử (?)-Tieshu và đường lớn đến thành phố  Tân Bình –Jin Ping tỉnh Vân Nam – Trung Quốc. Khác với  cửa khẩu Tây Trang,  biên giới Lào Việt phía nam tỉnh lỵ Điện Biên Phủ, mở rộng cho giao lưu quốc tế. Xen giữa núi và cao nguyên là các thung lũng hoặc lòng chảo có bề mặt tương đối bằng phẳng, nhưng dạng địa hình này chiếm diện tích không lớn. Đáng chú ý nhất trước khi  tỉnh cũ chia đôi là thung lũng cánh đồng Mường Thanh  hay lòng chảo Điện Biên rộng 1500 ha, nay thuộc tỉnh Điện Biên và cạnh dãy Hòang Liên Sơn là cánh đồng Mường Than ( Than Uyên), trước thuộc tỉnh Lào Cai, rộng  1200ha.  Vì quá trình bào mòn và xâm thực quá mạnh, địa hình Lai Châu lại cao, độ dốc lớn, mức chia cắt sâu và cắt ngang đều lớn, việc mở mang để xây dựng và giao lưu  với bên ngòai gặp  nhiều khó khăn. Cũng cần lưu ý thêm là do đặc điểm địa chất nên trên đất Lai Châu cũ, nhất là ở tỉnh Điện Biên, cũng hay xảy ra hiện tượng động đất  ảnh hưởng đến sinh họat người dân Lai Châu.

                        Đất đai

           Đất đai  Lai Châu có thể chia ra hai nhóm chánh :

                 - nhóm đất đồi núi feralit vàng đỏ -Ferralic Acrisols , phong hóa từ nhiều lọai đá khác nhau, chiếm diện tích lớn nhất tòan tỉnh. Phần lớn nằm  ở độ cao 700 – 1000m , độ dốc trên 250, bị rửa trôi mạnh, độ chua cao. Trên cao hơn nữa như  các núi cao Phăng Xi Păng,  Pú Sì Lung…  là đất mùn  alit – Humic  Alisols, đá phong hóa yếu, tầng đất mỏng,  trên cùng là một thảm lá mục lẫn lộn lá- rêu.  Còn có thể gặp  đất đen carbonat – Calcic Luvisols , hình thành trên phong hóa đá vôi ở các địa hình sườn dốc.

               - nhóm  đất ruộng (  ruộng bậc thang ) chủ yếu là đất feralit và đất bồi tụ có nguồn gốc phù sa cỗ, tầng đất mỏng, thành phần  từ đất thịt trung bình đến đất thịt nặng.

                       Khí hậu

              Lai Châu có khí hậu nhiệt đới núi cao, tương tự các tỉnh khác ở miền núi phía Bắc. Tuy nhiên, địa hình đã làm cho nền nhiệt Lai Châu cao hơn  các nơi khác trong vùng cùng  cao độ. Lai Châu cũng như  Thượng Du Tây Bắc nhờ các dãy núi cao theo hướng tây bắc đến đông nam, tạo thành một bức tưởng thiên nhiên chắn gió và bảo, nên mùa đông nóng hơn các tỉnh Đông Bắc, không bị các luồng gió lạnh khiến vùng Tây Bắc có sương mù và mưa phùn nhiều hơn. Số giờ nắng trong năm là 2200- 2400 giờ. Nhiệt độ trung bình cả năm  20- 210 C. Lượng mưa trung bình 1600 – 1700 mm. Nơi mưa nhiều nhất là Mường Tè, có khi lên tới 3200 mm/năm.  Ở các thung lũng thường mưa ít hơn, nhờ khuất gió, độ ẩm trung bình 80—85% .

             Khí hậu chia ra hai mùa rỏ rệt. Mùa khô lạnh thường từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Mùa khô thời tiết rất khô hanh vì có gió Lào thổi đến; có thể có mưa phùn, nhưng lượng mưa không đáng kể, sương muối thường xuất hiện  gây nhiều tác hại cho nông nghiệp. Mùa mưa nóng ẩm từ tháng 4 đến tháng 10. Lượng mưa khá tập trung, gây lũ lụt, xói mòn đất, ảnh hưởng lớn đến sản xuất, đời sống dân chúng. Tuy có nhiều khó khăn, khí hậu Lai Châu tạo đủ điều kiện  phát triễn nhiều lọai cây trồng nhiệt đới và cận  nhiệt đới – bán ôn đới. Các cao nguyên Lai Châu như Sìn Hồ, Tả Phình, Đào San có khi cao hơn 1500m nên thường có mây, sương mù bao phủ và khí hậu mát mẽ quanh năm, không mấy kém Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt.

             Thủy văn

            Nguồn nước Lai Châu tương đối dồi dào. Tòan tỉnh mới có trên 2000 km sông suối lớn nhỏ. Sông chánh chảy qua tỉnh là sông Đà. Sông Đà bắt nguồn  từ huyện Cảnh Dương, tỉnh Vân Nam - Trung Quốc, dài tổng cọng là 1010 km. Phần  chảy ở Việt Nam là 570km, qua Lai Châu, Sơn La, Hòa Bình rồi hội lưu với  sông Hồng ở Việt Trì-  tỉnh Phú Thọ.  Các sông khác là các nhánh sông Đà ( ở Lai Châu còn được gọi là Nậm Tè ), Nậm Ma, Nậm Cúm, Nậm Mu, Nậm  Na, Nậm Nhé ( Điện Biên ), Nậm Mức ( Điện Biên ) và nhánh  Nậm Mạ( ? )  qua  Tuần Giáo, Điện Biên Đông thì thuộc hệ thống sông Mã  …  Các dòng sông đều chảy theo hướng tây bắc- đông nam. Lòng sông dốc, nhiều thác, nhiều ghềnh, lượng dòng chảy lớn; chia ra làm hai mùa rỏ rệt. Mùa lũ trùng với mùa mưa, khi có mưa lớn , nước mưa dồn vào sông suối rất mau lẹ, gây lũ đột ngột. Lai Châu là tỉnh đầu nguồn nhiều sông suối, có nguồn thủy năng cao là điều kiện phát triễn  thủy lợi , thủy điện. Các sông suối Lai Châu như sông Đà, sông Nậm Na, sông Nậm Mú  chảy giữa các rặng núi cao  tạo ra nhiều thác nước  sóng bọt trắng  rì rào trong rừng thiên nhiên yên tỉnh tỉnh nhà . Thác nổi tiếng nhất là Tắc Tĩnh , cao hơn 50m, chảy thành 2 bậc, là một phong cảnh ngọan mục. Ngòai  ra, tỉnh Lai Châu còn chứa  suối nước nóng và nước khóang ở Văn Bố huyện Phong Thổ, Na Đông và Na Đôn ở huyện Tam Đường. Nay đã có thêm nhiều  hồ thủy lợi như hồ Hồng Sạt, hồ Chiền Sinh và  có lẽ năm 2017 hồ thủy điện lớn Nậm Hàng trên sông Đà. Lai Châu còn nhiều hang động như Bình Lư và Tiên Sơn , đặc biệt  trên  10 hang động nguyên thủy cách thị xã Lai Châu  6km phía tây nam, đầy  vú đá -thạch nhủ( stalactites ) và cột đá -măng đá( stalagmites)  óng ánh, đủ màu sắc và hình dạng, khiến nhiều người  mệnh danh  đây là “Động Phong Nha”  vùng Tây Bắc.                  

               Tài nguyên

Sinh vật.  Rừng Lai Châu hiện suy giảm rất nhiều tới mức báo động của lâm sản  và động vật quí hiếm, mất cân bằng sinh thái, xói mòn đất, lũ quét …gây thiệt hại lớn về người và của, sông ngòi cạn kiệt nước vào mùa mưa, nguồn nước sinh họat của một cư dân một số vùng cao bị thiếu hụt nghiêm trọng. Kỷ thuật canh tác nông nghiệp lạc hậu, phá rừng, đốt nương làm rẫy nên rừng đã bị tàn phá nặng nề. Diện tích rừng tỉnh Lai Châu cũ nguyên trên 1.3 triệu ha, chiếm gần 80 %  trước 1943-45, năm 2000 chỉ còn trên 452 000 ha rừng tự nhiên và 12 000 ha rừng trồng, nghĩa là chỉ còn 27.4% diện tích tự nhiên tòan tỉnh . Nếu hai tộc dân Thái và Mường khá giỏi về  làm ruộng nước; xây ruộng bậc thang- terracing giữ nước, tưới ruộng bằng đập nhỏ ngăn suối, bằng guồng nước ( xe nước ) - norias  và mương rảnh đưa nước suối lên  tận ruộng bậc thang cao nhất; trái lại  hai tộc dân Dao ( Mán )và Mèo ( Miêu theo tiếng hán việt hay H’Mông )  lại là những kẻ phá rừng nhiều nhất, đúng châm ngôn của tộc dân  Dao  là” cày bằng lữa đốt và  gieo bằng đao kiếm” ( theo Lê thành Khôi : Việt Nam : văn hóa và môi trường – trang 62, Hội Việt Học xuất bản -2012 ). Trên phương diện thực vật, Phạm Hoàng Hộ ( 2002- 2003) ước lượng Việt Nam đã định danh 12 000 lòai -species  cao cấp  trong đó có 70 lòai trồng trọt, 1500 lòai cây trái và rau đậu ăn được, 100 lòai là gỗ qúy, 2000 lòai lan và 3200 lòai cây làm thuốc Bắc – thuốc Nam, nghĩa là đa dạng thực vật hơn Canada (chỉ định danh 3300 lòai ) và tương đối lớn hơn cả Brasil , quốc gia thế giới  đã định danh 56 000 lòai, nhưng diện tích 26 lần lớn hơn Việt Nam (Trần Đăng Hồng - 2005, trang 89, sách Việt Nam: Văn Hóa và Môi Trường xuất bản năm 2012). Lai Châu chiếm phần lớn các rừng  phía bắc của dãy Hòang Liên Sơn là một trong 4 trung tâm  thực vật đặc hửu, địa phương- endemic  nước nhà (ngòai Hòang Liên Sơn, 3 vùng đặc hửu khác là rừng ẩm ướt Bắc Trung Bộ, vùng núi Ngọc Lĩnh và Cao Nguyên Lâm Viên - Tây Nguyên ). Như chúng ta đã biết dãy Hòang Liên Sơn – Pú Luông kẹp giữa sông Hồng  và sông Đà là dãy núi trẻ, đỉnh nhọn, độ cao trung bình  các ngọn núi tới 1700- 2400 m, độ dốc lớn  40 -700 C, sườn bị cắt xẽ mạnh, chứa đỉnh cao  Phăng Xi Păng 3143m ( nay thuộc tỉnh Lai Châu ?  )  và gần đó nơi nghĩ mát Sa Pa (thuộc tỉnh Lào Cai ) cao độ  1600m, có phần thấp hơn Đà Lạt, nhưng lại có tuyết rơi vì ở vĩ tuyến Bắc xa hơn.  Pú Luông cao 2985m , gần thị xã Nghĩa Lộ, thuộc tỉnh Yên Bái.

Theo Thái Công Tụng ( sách Văn hóa và Môi trường, trang 77, Hội Việt Học xuất bản  năm 2012 )  rừng cao độ  thấp  là rừng lá rộng luôn luôn xanh , có các lòai chánh là táu trắng , táu vỏ vàng Vatica odorata  táu là nhỏ lá nhỏ cuống ngắn hơn là V. fleuryana  họ dầu Dipterocarpaceae , chò chỉ Parashorea stellataChò đá – chò nâu -  chò nến  Dipterocarpus retusus (D.tonkinensis ) cũng họ Dầu, lát khét – xương mộc Toona febrifuga ( T. sureni ) họ Xoan Meliaceae, phong Sapindus mukorossi họ phong Aceraceae, lim vàng Bắc bộ Peltophorum dasyrrachis  var. tonkinensis họ phụ -Điệp  Caesalpinioideae, Muồng đỏ - Muồng tía  Cassia  timoriensis cũng họ phụ – Điệp,  tu hú – lõi thọ- bạch dương ( peuplier- poplar ) Phi châu  Gmelina arborea , một đại thụ mọc rất mau, gỗ xám trắng  để xây cất làm bột giấy, bàng – chiêu liêu ngàn trái Terminalia  myriocarpa  họ chưn bầu Combretaceae. Cao hơn nữa là các rừng trái thông – coniferous  chứa các lòai chánh: du sam Keteleeria evelyniana ( K. davidiana, K. dopiania ) họ thông Pinaceae,  thông 2 lá  Pinus merkusiana- P. merkusii, Kui Dui  một đại mộc lòai hoa sứ, hoa đại Paramichelia baillonnii, họ Dạ hợp Magnolia, Nhội tía – Bích hợp 3 lá  Bischofia trifolia, họ thầu dầu Euphorbiaceae, chôm chôm rừng Nephelium chryseum (? ) họ Nhãn Sapindaceae, pê( pơ ? ) mu Fokienia hodginsii  họ tùng Cupressaceae, thông giao – kim giao kết lợp Podocarpus imbricatus, họ kim giao Podocarpaceae. Rừng lạnh mát cao hơn 1700m chứa các lòai chánh là pêmu, đổ quyên – rhododendron  và các lòai  sặt Arundinaria sp.,  một lọai tre, trúc  – bamboo ); các lòai thuộc họ Dẽ  Fagaceae, họ Quế Lauraceae,  họ Trà (Chè ) Theaceae cũng rất thông thường. Dọc theo sông suối là các đám rừng tre - trúc, cung cấp một nguồn lợi tức đáng kể cho nông dân tỉnh. Cũng nên nhắc lại tên Hoàng Liên Sơn phát sinh từ một lòai cây thuốc trứ danh  tên là hòang liên Goldthread-Chỉ vàng tên khoa học là Coptis teeta, họ mao cấn  Ranunculaceae, một lọai cỏ đa niên, rễ chánh là những củ dài chứa aconitin , japaconitin ,masaconitin làm thuốc trị đau gan, đau kiết lị.     

Đáng ghi thêm  hai lòai hoa đặc  điểm cho tỉnh Lai Châu và vùng Tây Bắc . Thứ nhất là hoa đào quanh vùng kế cận Sapa  rải rác ở các bản- làng, ít khi tập trung như đào Mẩu Sơn tỉnh Lạng Sơn và chưa thắm đỏ  như các loài hoa đào Nhật Tân – Hà Nội. Nhưng nhất là lòai hoa ban, mà lễ hội hoa ban – hoa ban festival, vào tháng hai âm lịch mỗi năm khi hoa ban nở, rất nổi tiếng ở tỉnh Lai Châu ( và cả vùng Tây Bắc )  lúc xuân  ấm áp về thay đông rét mướt. Lễ hội hoa ban phản ảnh văn hóa và tinh thần các tộc dân Thái và cũng là thời gian thanh niên , thiếu nữ trai gái gặp nhau để hiểu biết nhau hơn. Chàng trai lựa chọn một đóa hoa to nhất và cài lên mái tóc cô gái. Cô gái thường nép mình dưới lá  tươi.  Hội hoa ban không chỉ là thời gian tỏ tình yêu thương mà còn  là lúc tộc dân Thái  cầu khấn cho được mùa, hạnh phúc và nhớ ơn tổ tiên. Lòai hoa ban, ở miền Nam có tên là Móng bò, vì lá chia ra hai mảnh dính nhau  hình móng bò, được thưởng thức nhiều nhất vùng này là đại mộc Hoa ban sọc Bauhinia variegata , hoa to trắng ngần có đốm tía như những cánh buớm rập rờn như hoa lan,  nên Âu Mỹ gọi tên là Orchid tree.  Lọai hoa ban này trước đây cũng được trồng nhiều  ở các tiểu bang Ha uy Di, vùng Ca Li ấm áp và Arizona, nhưng bán ra dưới tên  khoa học Bauhinia purpurea  hoa ban tím  phong lan mộc ( lan cây gỗ, cao đến 7- 12m, )- Purple Orchid Tree, cánh hoa rộng đến 10 -12cm , hoa  sọc tím . Hoa ban trắng, hoa hòan tòan trắng không sọc tím là B. variegata var candida  thấy ghi ở Việt Nam dưới tên  B. acuminate  lại là một tiểu mộc, hoa nhỏ hơn, cây chỉ cao đến 3m là cùng.  Các hoa ban khác làm cây cảnh như hoa ban đa màu  B. punctata,  có màu sắc từ đỏ gạch đến vàng cam sặc sở  như hoa bông giấy-bougainvillea, có thể tĩa cành mạnh làm kiểng bonsai, hoa ban Hồng Kông B. blakanae, hoa đủ màu trên một  cây từ nâu, hồng, tím đến  hường, hoa rất to rộng  21- 27 cm , cũng không thấy ghi là đã tìm thấy ở nước nhà trong số trên 40 lòai Hoa Ban -  Móng bò  từ Bắc vào Nam ; và chỉ thấy ghi hoa ban hoa vàng B. tomentosa, hoa ban  cánh xanh B. viridescens, hoa ban đơn hùng B. monandra cánh hoa  hường hay vàng có đốm đỏ v v…              

Vì rừng bị tàn phá nhiều nên ở Lai Châu  nay ít gặp các lòai thú lớn,  chỉ hay gặp nai, hoẳng, cheo,  sơn dương, rất hãn hửu gặp bò tót. Trong các lòai chim  có công, trĩ,  giẽ  giun rừng,  họa mi rừng,  gà gô núi,  đặc biệt là chim ưng điểm chấm – spotted eagle,  sáo hót – laughing thrushes, trỉ mào đỏ-   redcomb pheasants,  cò cổ hung hung đỏ -rufous necked herons  và hai lòai thú hiếm qúy là gấu đen Á Châu – Asiatic  black bear, và khỉ mặt đỏ  - red faced monkeys ... Các lòai  côn trùng có ích là cánh kiến đỏ, cánh kiến trắng.  

Khóang sản  

Tỉnh Lai Châu cũ có một số khóang sản phục vụ cho việc phát triễn  tiểu thủ công nghiệp địa phương như  đồng, than, đất hiếm, cao lanh, đá xây dưng…  Than tập trung ở Điện Biên, trử lượng đến năm 2000 vẫn chưa được điều tra chánh xác, đã đuợc khai thác với quy mô nhỏ, nhưng các vĩa than nằm gần mặt đất, khai thác tương đối dễ dàng. Trử lượng mỏ than mỡ Nà Sang ước chừng 150 000 tấn . Trử lượng đất hiếm  phân bố ở Phong Thổ, đặc biệt ở Đông Pao, Nậm Sà, phát hiện  năm 1956,  ước lượng năm 1999 đã đến 9  triệu tấn tổng oxid đất hiếm hàm lượng trong quặng trung bình đạt  4-5 % (  Nguyễn văn Thái biên sọan -  Địa lý kinh tế Việt Nam , 1999 ), các thân quặng giàu  đạt tới 30%  và  gần đây có thể có cả uranium ( ? ). Đã khai thác mỏ vàng cốm ở Chín Sáng , vàng sa khóang ven sông Đà và sông Nậm La,  đồng và thiếc ở Sìn Hồ. Trữ  lượng cao lanh  ở Huổi Phạ trên 50 000 tấn, chất lượng tốt, thích hợp cho  sản xuất sành sứ và vật liệu xây dựng. Đá xây dựng phân bố khá rộng rải, ngòai khai thác phục vụ tỉnh còn có thể xuất tỉnh  nữa.        

            Phần II : Lạm bàn phát triễn 

Hạ tầng cơ sở 

Điện lực  

              Tuy sông Đà ( Black River, Rivière Noire ) chảy trong địa phận Việt Nam( 527km ) dài hơn ở Trung Quốc ( 427 km ), tỉnh Lai Châu giáp biên giới ít phát triễn thủy điện nguồn sông Đà còn ít  hơn  tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Việt Nam đã ước lượng sơ khởi là có 96 địa điểm có thể xây cất đập thủy điện ở phần  luu vực sông Đà chảy trong địa phận nước nhà . Công trình thủy điện Nậm Na 3- Lai Châu khởi công tháng 11 năm 2009 và dự trù hòan tất tháng 10 năm 2013,chỉ  có công xuất 84 000 KW ( 84  MW  ), tiếp theo hai đập thủy điện nhỏ hơn là Nậm Na 1Nậm Na 2 .  Trong khi đó  trên phần sông Đà Trung Quốc,  tổng số đập thủy điện lớn nhỏ là 28 . Trung Quốc năm 2012 đã hòan thành 6 đập ở sông Đà- địa phận Tàu là Yayangshan , Shimenkan, Long Ma, Jufudu , Gelantan và Tukahe. Đập thứ bảy là Xinpingzhai sẽ hoàn thành năm nay 2013, đưa công xuất thiết kế tổng cọng theo phương cách một thác lũ đập ( đập dưới dùng nước đập trên  như một số đập sông Đồng Nai )  lên đến 1 311  MW .

 Đập lớn Lai Châu trên sông Đà là đập Nậm Hang, xã Nậm Hang( không phải là Na Hàng ở tỉnh Tuyên Quang ), huyện Mường Tè,  dự trù khởi công  ngày 5 tháng 1 năm 2011, nhưng thật sự chỉ mới làm lễ khởi công tháng 3 năm 2013 và dự trù chạy máy phát điện đầu tiên vào quý thứ nhất năm 2016 và hòan tất năm 2017 (? ). Công xuất Nậm Hang là 1200 MW ( 1.2 triệu KW ), trị giá  1.8 tỉ đô la Mỹ, tương đối nhỏ hơn đập Hòa Bình công xuất đến 1929 MW, đã họat động năm 1994 và đập “ Sơn La Thấp “ chỉ  cao 228m ( mực nước trung bình là 215m ),  tổng công xuất thiết kế 5 đơn vị là 2400 MW( thay vì 3600MW đập “ Sơn La Cao” dự trù trước năm 1999 ). Nhưng “ Sơn La Thấp” vẫn còn  là đập thủy điện lớn nhất Đông Nam Á , được Quốc hội khóa 10 phê chuẩn dự án và ngân sách  ngày 29 tháng 6 năm 2001 và hòan thành năm 2012 . Theo Tổ hợp( Corporation ) Công ty sông Đà, xây cất đập Sơn La là một thu thập nhiều kỷ thuật tiên tiến từ ngòai quốc cũng như trong nước  từ, các lọai máy móc nặng chuyên chở đến  các máy khoan,  các vụ làm  nổ núi đá  để giúp khoan , sảnxuất 2.5 triệu tấn m3 đá vụn và 400 ( ? ) máy móc  dụng cụ  đặc biệt. Ngay cả  kỷ thuật  dùng  máy nén  bê tông dày đặc- roller compacted  concrete ( RCC) cũng thuộc lọai tân tiến nhất thế giới. Công ty Sông Đà đã phải làm thêm  cơ xưởng  sản xuất tro bụi nhiên liệu bốc lên khi đốt -fly ash, thành phần làm bê tông RCC dung tích 400 000 tấn từ nhà máy nhiệt điện Phả Lại tỉnh Hải Dương, ngòai hai cơ xưởng lấy tro bụi than đốt này của công ty ở Cao Cương, Bắc Sơn.  Đập thủy điện Sơn La đã dùng đến 5.2 triệu m3 bê tông  trong đó là 3,2 triệu m3 RCC và đập Nậm Hàng dự trù chỉ dùng 3.1 triệu m3  cả hai lọai bê tông.  Các kỷ sư, công nhân xây dựng Sơn La đã được huấn luyện thành thạo  từ việc xây cất các đâp trong nước  như đập Hòa Bình, Na Hàng -Tuyên Quang, Ya- Ly-Pleiku – Kontum, Se San  Đắc Lắc v.v… 

Trên 5000 chuyên viên và thợ chuyên môn  xây đập Sơn La,  trong tổng số 9 000 họat động ở đập Sơn La,  đã được chuyễn qua xây đập Nậm Hang Lai Châu,  theo phóng sự của Xuân Mai về Sông Đà 10, ngày 14 tháng giêng năm 2010. Vấn đề quan trọng cho cả hai đập Sơn La và đập Lai Châu là vụ tái định cư dân địa phương phải bỏ làng bản làm hồ tích trữ nước.  Nhắc lại là hồ chứa nước đập Sơn La  có dung tích là 9.26 tỉ m 3 , rộng  224 km và dài hàng trăm km từ Mường La –Sơn La đến thị trấn Mường Lay – Điện Biên. Các tỉnh Sơn La, Điện Biên đã phải di chuyễn 19 000 gia đình khỏi vùng hồ ngập, một cuộc di chuyễn vì xây cất đập lớn nhất đất nước từ trước đến nay. Việc  bồi thường  đất đai cho các di dân, cũng như  công ăn việc làm, đường xá, trường học , bệnh viên… các khu định cư mới, dự trù là phải tốt đẹp hơn quá khứ, hình như đến nay vẫn chưa được giải quyết êm đẹp, dứt khóat !    

Chuyên chở  

Quốc lộ 4 nối Lai Châu và tỉnh Lào Cai.  Quốc lộ 12  nối với tỉnh Điên Biên  và quốc lộ 32 với tỉnh Yên Bái. Quốc lộ 12 ngang qua Pa Nậm Cúm( Ma Lù Thàng ? ) nối với JinPing – Vân Nam  và quốc lộ Tàu đến thành phố  Gejiu-VânNam. Chuyên chở đường bộ  tăng nhanh vào đầu thế kỷ thứ 21. Năm 2000 chuyên chở đường  bộ chỉ mới là 1 triệu tấn.km; năm 2007 đã tăng lên đến 21.3 triệu tấn.km. Số hành khách đường bộ  cũng đã tăng từ 4.4 năm 2000 đến 16.7 hành khách.km năm 2007. Tuy nhiên chương trình nâng cao, nhựa hóa các đường nội tỉnh, liên tỉnh và các tuyến vành đai thực hiện kém cõi, chậm trễ. Chưa đến 20%  các đường trong tỉnh là được lát đá, đổ bê tông hay tráng nhựa. Đa dạng hóa các lọai hình vận tải cũng không mấy tiến triễn  cũng như  xóa các xã “ trắng “về giao thông vì vẫn còn một số xã chưa có đường ô tô đến trung tâm( ? ).  Hai tuyến đường sông  Lai Châu – Nậm Mạ và Lai Châu – Mường Tè cũng chưa cũng cố xong. Cần xúc tiến mau lẹ hơn phi trường gần Lai Châu, như đã dự trù năm 2012,  để khỏi lệ thuộc vào phi trường Mường Thanh, tỉnh Điện Biên . Từ Hà Nội đến Điện Biên Phủ bằng máy bay chỉ mất 1 giờ đồng hồ, nhưng từ Điện Biên Phủ đến thị xã Lai Châu trên đường quốc lộ số 12, một đường núi non dài hiểm trở , qua đèo Pha Đinh ngoằn nguèo. Năm 2013, chỉ có hơn 10% doanh vụ địa phương cho là đường xá trong tỉnh  tốt  mà thôi .   

Thông tin và bưu chính viễn thông. Số máy điện thọai từ 4500 chiếc năm 2000 đã tăng lên đến  14200 chiếc năm 2006 và 22100 chiếc năm 2007 .  Một số bản làng hẻo lánh vẫn chưa có  truyền thanh, truyền hình. Năm 2013, chỉ  36 % dân gian cho là mạng lưới viễn thông tỉnh tốt đẹp, là sỉ số thăm dò thấp nhất ,  so với tất cả mọi tỉnh nước nhà.           

           Các hướng phát triễn            

Tổng quát

 

Từ lâu Lai Châu  là một tỉnh nghèo nhất, ít công nghệ hóa nhất nước nhà. Năm 1974 công xuất công nghiệp thành phố Hà Nội, thành phố giàu nhất  đất Bắc năm đó, cao 47 lần hơn Lai Châu . Vào thời  gian công cuộc “ Đổi Mới”( 1986- 88 ) ,điểm xuất phát Lai Châu rất thấp, thực lực phát triễn kinh tế yếu kém ; hạ tầng cơ sở kỷ thuật yếu kém, thiếu đồng bộ, đòi hỏi rất lớn về vốn đầu tư phát triễn, phương thức sản xuất lạc hậu mang nặng tính tự cấp, tự túc, sức mua thấp, đời sống dân cư nghèo khổ khó khăn, rừng bị tàn phá nặng nề, môi trường biến đổi theo xu thế mỗi ngày một xấu, trình độ dân trí thấp, lao động kỷ thuật rất thiếu, đường biên giới hiểm trở, hẻo lánh, gây khó khăn cho an ninh và quốc phòng.  GDP tăng lên 1. 5 lần từ năm 1995 đến năm 1999, tuy vậy,  tổng GDP Lai Châu vẫn thấp nhất so  với các tỉnh và thành phố khác trong nước. Công nghiệp hóa Lai Châu còn tụt dốc thêm khi phần miền Nam tỉnh Lai Châu cũ  công nghệ hóa hơn cả, tách rời  Lai Châu thành tỉnh Điện Biên. Năm 2007, mức sản xuất công nghiệp thành phố Hà Nội( trước khi sáp nhập tỉnh  Hà Tây )  là 93 lần mức công nghiệp Lai Châu. Dù như thế, mức công nghiệp tỉnh nhà cũng đã tăng mau lẹ những năm  đầu thế kỷ thứ 21, tăng 3 lần hơn  từ năm 2000 đến năm 2007. Công nghiệp  Lai Châu là khu vực tăng mau nhất so với  nông lâm, chỉ tăng ít hơn 50%  và khu vực dịch vụ tăng hơn gấp đôi trong khỏang thời gian này. Mức tăng trưởng của Lai Châu là 50.75% từ năm 2000 đến năm 2005, 12.3% năm 2006 và 14.56 % năm 2007. Tăng trưỡng kinh tế Lai Châu có phần chậm lại vi khủng hỏang kinh tế quốc tế kéo theo Việt Nam từ năm 2008 – 09 , nhưng năm 2012 đã đạt lại mức 13 %.

Công nghiệp chế biến nông lâm sản, thực phẩm là thế mạnh của tỉnh trước đây;  tỉ như xí nhiệp chè quốc doanh (? ) quy mô khá lớn ở Tam Đường huyện Phong Thổ,  công ty bia  và đồ uống ở thị xã Lai Châu ? , các công ty chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ tre- nứa , đặc biệt sản xuất  giường- tủ- bàn ghế.   Công nghiệp chủ yếu  Lai Châu  là khai thác than( ? ) qui mô nhỏ , quặng kim lọai ( đồng thiếc ở Sìn Hồ, vàng cốm ở Chín Sáng , và sa khóang ven sông Đà và sông Nậm La như đã kể trên ). Nhưng nổi bật nhất là khai thác chế biến đất hiếm- rare earths ở Đông Pao. Việt Nam có hai tỉnh chứa quặng đất hiếm là Lai Châu và Kontum – Quảng Nam, và đã được quốc tế xác nhận là nước có nhiều quặng đất hiếm thế giới như Trung Quốc , bang Ca Li – Hoa Kỳ , Canada, Brasil …  Tháng 10 năm 2010 ( ? ), chánh phủ Việt Nam đã ký kết chấp thuận cho Nhật khai thác đất hiếm ở Phong Thổ, khi Trung Quốc ngưng xuất khẩu đất hiếm sang Nhật, vì tranh chấp Nhât -  Tàu về  đảo Senkaku ( tên Nhật ) - Điếu Ngư -Diao Yu ( tên Tàu )  phía bắc Đài Loan ở Biển Đông.  Năm 2012, Trung Quốc khai thác, chế biến chừng 55 000 tấn đất hiếm ( xuất khẩu 35 000  tấn và tiêu thụ trong nước 20 000 tấn ); và sẽ tăng thêm nhiều tiêu thụ  đất hiếm trong nước những năm tới vì công nghệ Trung Quốc cao kỷ thêm và  nhu cầu quân sự cũng thêm. Hình như có sự khai thác lén lút  xuất khẩu (? ) đất hiếm Phong Thổ sang Tàu, chế biến ở tỉnh Tứ Xuyên – SiChuan là một trong hai tỉnh có nhiều đất hiếm , tỉnh kia là  Nội Mông -Inner Mongolia vùng Bao Tou.  Như chúng ta đã biết có cả thảy 17 nguyên tố đất hiếm ghi danh ở bảng hóa học tuần hòan . Lanthanum là lọai đất hiếm nay Nhật dùng chế tạo  các bình điện NiMH ( nickel metal hybrid )cho xe  Toyota  và máy truyền hình Panasonic …. và Neodymium dùng chế tạo nam châm - magnet NdIB ( Neodymium- Iron – Boron) ; và Indium Tin ( thiếc ) oxid –ITO làm một điện cực cho những máy dò dung trở - capacitive sensors  ở màn hình   chạy đụng tay – touch screen , các trình bày OLED v.v… ngành điện tử . ( Muốn biết thêm , xin tham khảo bài đất hiếm  đã đăng tải năm 2012 ) .

Lai Châu  là tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh, một số đã kể ra ở phần I tổng quát về địa hình, thủy văn. Về du lịch núi chỉ mới phát triễn lại  gần đây , sau các năm đầu thập niên 1940, ở Phăng Xi Păng có sinh thái đa dạng từ thấp lên đỉnh cao. Các dãy núi cao khác như Bạch Mộc Lương – Pú  Khao Lương  2998m  gần Đèo Mây  giáp tỉnh Lào Cai ,  Pú Sì Lung phía tây bắc tỉnh Lai Châu sát biên giới Trung Quốc, chưa mấy ai thám hiểm, biết tới. Địa hình cácxtơ ngọan mục, hàng lọat hang động đẹp chỉ mới được lưu ý  đến đôi chút ở xã Bình Lư – Phong Thổ,  phần lớn hang động tổ chức thăm viếng thuộc tỉnh Điện Biên như Pa Thơm – huyện Điện Biên, Thẩm Khương, xã Chiềng Sinh - huyện Tuần Giáo  hay hang Thẩm Báng xã Búng Lao- huyện Tuần Giáo  là một hang cỗ nguyên sơ cao gần 100m với nhiều ngách  nơi đã tìm thấy  di tích người xưa như rìu, chày bằng đá. Các  di tích lịch sử - văn hóa phần lớn cũng đề cao ở tỉnh Điện Biên. Nhưng Lai Châu là tỉnh có nhiều tộc dân, mỗi tộc dân  có bản sắc riêng, có khả năng  thu hút khách du lịch không kém.  Chẳng hạn, Tam Đường là một huyện có thể phát triễn mạnh mẽ  hơn nữa ngành du lịch  cũng như các lảnh vực kinh tế khác. Cảnh quan thiên nhiên huyện này có thể hấp dẫn  du khách như động Tiên Sơn, thác Tắc Tĩnh, các rừng sinh thái. Tam Đường lại gần khu nghĩ mát Sa Pa, thuộc tỉnh Lào Cai  trên con đường phổ cập SaPa- Lai Châu – Điện  Biên. Thích thú hơn nữa là thị trấn Tam Đường có nhiều nhóm tộc dân, mỗi nhóm có đặc điểm truyền thống đặc thù và độc đáo thể hiện qua bài ca, điệu nhảy múa, món ăn lạ lùng, cũng như các chuyện kể cũ gốc tích khác nhau. Sìn Hồ  cũng là nơi du khách phải  dừng chân  khi viếng thăm Lai Châu. Muốn đến Sìn Hồ phải leo 38 km đường đất rất xấu , khi rời khi quốc lộ12 , cách làng Chan Nua 1km về phía Bắc, hay đường mòn thách thức lớn  từ thị trấn Tam Đường. Chợ phiên Sìn Hồ mở cửa mỗi thứ bảy và mỗi chủ nhật; từ sáng sớm thứ bảy chợ là nơi các dân địa phương quanh vùng tụ họp và chủ nhật hút dẫn dân gian từ các bản làng xa xăm ồn ào và màu sắc rực rỡ hơn, vì ngày nay  nhìn thấy ở chợ Sìn Hồ áo truyền thống  đủ màu của các tộc dân Dao Đỏ,  Mèo- H’Mông, Phù Lá, Si La, Lào, Cống. Ở 3 bản làng tên gọi là Sẻo Hay, Sì Thâu Chải, Nậm Xìn ở huyện Mường Tè có chừng 600 người thuộc tộc dân SiLa ngôn ngữ nhóm  Miến Tạng – Tibeto Burman , sinh sống ở nhà sàn sát mặt đất. Phụ nữ SiLa có y phục thật  độc đáo. Phần trên luôn luôn có màu khác hẳn phần áo còn lại và trang điểm bằng các đồng tiền  bạc và thiếc. Khăn đội đầu thay đổi tùy tuổi tác.  Khi du hành, đàn bà  luôn luôn mang theo một giỏ đan tay, viền cột  tua đỏ. Đàn ông Si La nhuộm răng màu đỏ và đàn bà nhuộm răng đen, nhưng thanh niên nam nữ ngày nay không chịu nhuộm răng màu như thế nữa. Các lễ hội  văn hóa Lai Châu cũng rất đa dạng, phong phú, mang đậm bản sắc các tộc dân địa phương. Ngòai lễ hội hoa ban đã nói trên, lễ Hạn Khuông của người Thái diễn ra  vào khỏang giữa mùa xuân ( ?) có lời hát, truyện kể trong không khí ấm cúng, tao nhã. Hạn  là sân khấu, Khuông là sân vườn. Khi lễ bắt đầu các cô gái trẻ, đẹp, chưa chồng, hát những bài yêu đương trên sân khấu, rồi các chàng trai trẻ cũng đáp lại bằng câu hát. Cùng lúc họ tìm kiếm xem ai cùng chung ý tưởng và  ngồi lại trò chuyện với nhau, rồi hẹn ngày gặp lại nhau và sau cùng lấy nhau. Người già cả đi lễ Hạn Khuông  để nhớ lại quá khứ. Lễ mừng măng mọc vào đầu mùa mưa của người Mảng, Kháng, La Hủ, Phù Lá, Khơ Mú  diễn ra khi những búp măng  mới nhú lên. Lễ tết cơm mới của người La Hủ, lễ cúng bản của người Cống … nối dài  chuổi lễ hội đặc sắc Lai Châu.

Ngòai việc mở rộng, cải tiến giao thông đến các địa điểm du lịch và kiến tạo các cơ sở lưu trú  ( chỉ Điện Biên Phủ có khách sạn quy mô ! )  cũng như tạo  một số sản phẩm  du lịch độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa, lịch sử, tôn tạo những cảnh  quan tự nhiên và bản sắc văn hóa các tộc dân tỉnh nhà, Lai Châu cần tạo thêm  những  điểm, tuyến có khả năng  lôi cuốn đặc biệt. Chú trọng  về hồ đập thủy điện Nậm Hàng và nhất là những nơi  tái định canh, định cư các quần thể phải di dời vì hồ ngập, phỏng theo  kiến trúc bản sắc dân tộc , dùng vật liệu mới dễ  hòa điệu đời sống mới tân tiến hơn:  hoặc  sửa đổi quần cư nông thôn miền núi cao, nhà cửa thấp, chật chội, vật liệu  làm nhà quá đơn giản, kiến trúc sơ sài, nhà nọ nằm cách nhà kia khá xa, đường đi lại là đường mòn  đi bộ hay cho ngưa thồ; cố gắng biến quần cư này  thành những bản làng  kiến trúc cao ráo  rộng rãi hơn, chú ý tới mỹ thuật, vật liệu bằng gỗ tốt lựa chọn công phu,  xung quanh  nhà là khỏanh vườn  rào dậu cẩn thận trồng rau đậu và cây ăn trái; hay  tốt hơn nữa xây nhà  bằng gạch ngói như  ở khu vực  Điện Biên,  Mường Lay …  Các huyện lỵ, thị xã nới rộng phải được qui họach đổi mới, thiết kế theo đúng chánh sách đô thị hóa ngày nay, ngày mai.       

   Trên phương diện  nông nghiệp, năm  2007 tổng sản lượng thực lượng qui thóc Lai Châu chừng 180 000 tấn chưa đến mức  bình quân đầu nguời theo tiêu chuẩn quốc gia , cần tăng cường  khuyến nông mạnh mẽ hơn. Tuy sản xuất  lúa gạo và bắp ( ngô) năm 2007 đã tăng gấp ba so với  năm 2000, năng xuất vẫn còn quá thấp, trung bình  2.5 tấn /ha, vì chưa hòan tòan bải bỏ hẳn  được cách canh tác lúa rẫy – (  lúa nương đất khô) phá rừng tai hại  các tộc dân Dao và Mèo, năng xuất thấp kém, độ 1tấn/ha. Thung lũng lớn Mường Than – Than Uyên,  trước thuộc Lào Cai, tuy không lớn bằng thung lũng Mường Thanh  nay thuộc Điện Biên, nếu thâm canh hơn với các giống lúa siêu năng, có cơ cung cấp thêm nhiều lúa gạo cho tỉnh Lai Châu mới, bổ sung mức bình quân lương thực đầu người tỉnh  nhà. Tuy rằng nay nhiều  người Dao, Mèo  đã biết cách làm ruộng lúa nước bậc thang, như người Tày, người Thái, người Kinh,  năng xuất cao hơn nhiều và làm được hai vụ một năm, khỏi du canh phá rừng làm nương rẫy.  Điểm đáng lưu tâm hơn là trong thời gian này mức sản xuất  sắn - khoai mì chỉ tăng 40 %, quá ít ỏi so với các tinh dòng cải thiện và kỷ thuật trồng  sắn - khoai mì năng xuất cao  đã có trong nước. Năng xuất trà ( chè ) tăng khá hơn 120% và nay trà Lai châu nổi tiếng thuộc các giống Shan, Ô Long… đã bán ở nhiều tỉnh Việt Nam và cũng đã bắt đầu xuất khẩu ra ngọai quốc (? ). Đáng lo ngại là diện tích trồng cà phê chè  lọai Arabica, trồng nhiều  nhất ở các huyện Điện Biên và Tuần Giáo ( cả hai thuộc tỉnh Điện Biên) không mấy tăng gia ở tỉnh Lai Châu mới, có lẽ nên du nhập phổ biến thêm các giống Arabica ngọai quốc, cao năng hơn các giống cũ đã lỗi thời như Catimor, Catua . Phát triễn cao su chịu lạnh Trung Quốc  đã du nhập trồng nhiều ở hai tỉnh Lào kế cận là Phong Sa Ly và Nậm Tha và các tỉnh vùng cao Thái Lan ( ? ) ,  ở tỉnh Lai Châu,cần giải quyết  các thắc mắc tổ chức to, nhỏ điền địa,  chia sẽ lợi tức thiết lập các vườn cao su, và phân phối các cây con  vườn ươm giống mới , cũng như tăng cường huấn luyện canh tác, săn sóc , bảo vệ   thích nghi hơn cây con chưa trưởng thành, phương cách cạo mũ cây, chế biến thành sản phẩm xuất khẩu được  … Hầu không phương hại đến thế nông lâm mục tất yếu cho nông nghiệp tỉnh. Ngòai cà phê Arabica và cao su chịu lạnh, thế này ở Lai Châu phải nghĩ thêm đến hội nhập các lọai  giống cây ăn trái( quả )  mới như hạch quả mắc cam , (giẻ bi,  macadamia nuts ), hạnh nhân almonds, mày( châu )  pecans , hột dẽ( giẽ ) chestnuts , hồ đào óc chó walnuts, ngay cả quất mân việt, nô ni vv… ngòai những cây trái  cỗ truyền như chuối , mít ,  cây có múi ( cam, quít bưởi ) đào lông  peaches , đào trần nectarines , mơ, mận tây, táo pom, táo ta  jujube( roi, lý,  đào ta , mận ta  ),  lê, lựu,  mảng cầu tây cherimoya …, nhưng với các giống mới cải thiện cao năng hơn, hiện có trên thế giới. Trong vườn nhà  cải thiện quần cư các tộc dân Dao, Mèo  các  hay giữa các hàng cao su, phải cố trồng  những giống rau đậu  tuyễn chọn hay các giàn  mơ lông , dâu tây strawberries,  các giàn mâm xôi-ré -dum raspberries giống mới Chí lợi Nam Mỹ, ngay cả thanh long miền Nam, nhản lồng – passion fruit giống xứ mát  …. Trên phương diện chăn nuôi , thế nông lâm cũng phải lưu ý đến cải thiện các lòai trâu như trâu sửa Murrah , như bò ngon Hà Giang hay tốt hơn nữa bò waggy Nhật ( thịt bò Kobê ),  heo Bershire nuôi kiểu  Nhật Kagoshima, gà lôi ( tây ) turkey, công , trĩ ….

Tương lai phát triễn Lai Châu cũng như Điện Biên và các tỉnh Tây Bắc khác là cố cải thiện thương mãi trao đổi hàng hóa với các cửa khẩu hiện chưa giải tỏa biên giới Vân Nam , Trung Quốc và các cửa khẩu biên giới Lào, ngòai cửa khẩu đã họat động  tốt là Tây Trang, nay thuộc tỉnh  Điện Biên. Cố gắng tiến tới biên giới Miến – Thái Lan (  Chang Rai ? ) phần lớn thuộc tộc dân Shan – Miến Điện mà nước ta đã đến tận nơi, từ thời nhà Lý, nhà Hậu Lê,  nay dân Miến Điện đang cố vươn mình thóat khỏi vòng kiềm chế Trung Quốc bành trướng  .

 

                 ( Irvine , NamCali, ngày 28 tháng 3 năm 2013 )  

 

 

 

 
 
 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 693416 visitors (2230867 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free