29/5/2014
Nhất giang lưỡng quốc nan thương Thuyết,
Tứ nguyệt tam vương triệu bất Tường
Một đời mà có ba vua:
Vua còn, vua mất , vua thua chạy dài
( Chú thích : Thuyết là Tôn Thất Thuyết và Tường là Nguyễn văn Tường hai vị trong số 3 phụ chánh đại thần nhà Nguyễn Phước lúc đó . Hiệp ước Harmand ngày 25 tháng 8 năm 1883 cho phép quân đội Pháp đóng sứ ở sứ quán một bên bờ Sông Hương, Huế và ở cửa Thuận cùng tàu thủy lởn vởn ngòai khơi và đường dây điện tín nối liền Sứ Quán với đồn quân Pháp ở Thuận An …Thời vua Hàm Nghi, quân đội Pháp do trung tướng De Courcy theo tàu Le Pluvier tư Bắc Kỳ vào chỉ huy không những đóng quân ở Cửa Thuận cách Huế 10 km mà còn ở Trấn Bình Đài - Đồn Mang Cá , sát hòang thành , cách chỗ vua ở chỉ vài trăm mét. Tướng De Courcy ra lệnh cho các đại thần Viện Cơ Mật và các thượng thư đến trình diện ông ngày 3- 7. Trong thời gian chờ đợi từ 2 đến 4 tháng 7, mọi cuộc vận động của Triều đình để nối lại sự thương nghị đều bị tướng De Courcy bác bỏ. Sự thể bắt buộc phụ chánh Thuyết, đêm 4 tháng 7 năm 1885, ngầm chia quân ra hai đạo, một đạo do em là Tôn Thất Lệ dùng các phần tử thân tín - Phấn Nghĩa Quân từ Sơn Phòng Quảng Trị về đánh úp tòa Khâm sứ, một đạo do chính mình chỉ huy cùng Phân Nghĩa Quân Chưởng vệ Trần Xuân Sọan bất thần tấn công Trấn Bình Đài Mang Cá . Ông Thuyết đánh không phải để thắng trận mà cốt cầm chưn người Pháp và nhân cơ hội đưa Vua và một số quan quân lên Tân Sở - Cam Lộ Quảng Trị. Tam vương là vua Hiệp Hòa thay vua Dục Đức kế vị vua Tự Đức bị truất phế, nhưng vua Hiệp Hòa bị giết vì quá thân Pháp , vua Kiến Phúc thay nhưng mất sớm ngày 31 - 7 - 1884 sau 8 tháng tại vị . Tường và Thuyết đưa vua Hàm Nghi lên ngôi, dù quyền tổng trú sứ Pháp là Rheinard, tự cho là mình có quyền xen vào nội bộ VIệt Nam, chống đối lập vua Hàm Nghi mà không hỏi Pháp trước ... )...
Nước Nam có 4 anh hùng:
Tường ( không) gian, Viêm ( không) dối, Khiêm ( không) khùng, Thuyết( không) ngu.
Nguyễn Văn Tường, Hòang Kế Viêm, Ông Ích Khiêm, và Tôn thất Thuyết, chỉ gian, dối , khùng, ngu, bị Pháp Thực dân- Thuộc địa bôi nhọ, vì các ông đã dám chống Pháp xâm lăng, cố giữ độc lập và vẹn tòan lảnh thổ cho nước nhà )
Suôi dòng lịch sử
Hưng Yên là một tỉnh diện tích nhỏ của 10 tỉnh miền Đồng Bằng sông Hồng( ĐBSH ), tổng diện tích là 14 799 km2 , trong số diện tích cả nước là 329 247 km2 . ĐBSH chỉ bằng gần ⅓ diện tích Đồng Bằng sông Cửu Long ( ĐBSCL ) 39 760 km2 . Diện tích Hưng Yên là 923 .1 km2, tương đương với thủ đô Hà Nội 921 km2, lớn hơn Hà Nam ( 851 km2 ) và Bắc Ninh đôi chút ( 804 km2). Nhưng lại được cư dân Việt sinh sống đã mấy ngàn năm nay, so với mấy trăm năm trên đất đai vùng các sông Đồng Nai, Vàm Cỏ và sông Tiền, sông Hậu châu thổ sông Cửu Long.
Nước Nam có 4 anh hùng:
Tường ( không) gian, Viêm ( không) dối, Khiêm ( không) khùng, Thuyết( không) ngu.
Nguyễn Văn Tường, Hòang Kế Viêm, Ông Ích Khiêm, và Tôn thất Thuyết, chỉ gian, dối , khùng, ngu lvì đã dám chống Pháp xâm lăng, cố giữ độc lập và vẹn tòan lảnh thổ cho nước nhà , nên bị Pháp Thực dân- Thuộc địa bôi nhọ ! )
Suôi dòng lịch sử
Thật thế, thời các vua Hùng, Hưng Yên thuộc đất Giao Chỉ , châu Dự Chiến. Nhắc lại là phương pháp carbon phóng xạ C14 đã xác định là nền văn minh Sông Hồng: Phùng Nguyên - Đồng Dậu- Gò Mun - Đông Sơn, đã phát triễn từ cuối thiên niên kỷ thứ III trước Công Nguyên ( BC ) đến buổi đầu Công Nguyên, phản ảnh quá trình hình thành nhà nước đầu tiên của dân tộc là nước Văn Lang các vua Hùng. Đời nhà Ngô, tên gọi Hưng Yên là Đăng Châu. Đời Tiền Lê đổi tên thành phủ Thái Bình; đời Lý thành phủ Đăng Châu và Khoái Châu và đời nhà Trần thành Lộ Long Hưng và Khoái Lộ. Đời Hậu Lê, Hưng Yên thuộc Lộ Sơn Nam, sau đó lại chia ra 2 là Lộ Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ .
Năm 1831, Minh Mạng thứ 12 , tỉnh ( thay tên cũ là trấn ) Hưng Yên được thành lập, gồm 5 phủ ( là một huyện lớn )- huyện. 5 huyện là Đông Yên, Kim Động, Thiên Thị , Phù Cừ và Tiên Lữ , tách ra khỏi phủ Khóai Châu trấn Sơn Nam Thượng và 3 huyện Thân Khê, Duyên Hạ và Hưng Nhân tách khỏi phủ Tiên Hưng, trấn Sơn Nam Hạ ( là trấn Nam Định) để thành lập tỉnh Hưng Yên. Trung tâm tỉnh lúc này là ở hai xã Ân Vũ là Lương Điền, rồi dời qua thôn Nhị Tân xã Xích Đăng nay thuộc thị xã Hưng Yên ngày nay .
Năm 1872, đề đốc Dupré được Pháp tái cử làm thống đốc Nam Kỳ. Dupré nghĩ ra kế họach thâm độc chiếm Bắc Kỳ để buộc triều đình Huế phải chịu ký hiệp ước nhận sự “ Bảo Hộ “của Pháp. Cuối năm 1972, Dupré cử một lái buôn Pháp Jean Dupuis ( Đô Phối, Việt Nam không dùng từ Pháp dịch là Đồ Phổ Nghĩa ) đem một đòan tàu tới Bắc Kỳ , ngang nhiên dùng sông Hồng Hà chở khí giới cho quan chức nhà Thanh ở Vân Nam. Tuy các quan văn vỏ địa phương ( như kinh lược sứ Lê Tuấn, tổng đốc Hải Dương Lê HửuThường... ) nhiều lần dùng lý lẽ ngăn trở, Dupuis hết sức ngang ngược và xấc xược ,vẫn cứ từ Hải Dương đi đến Bắc Ninh và khi đến Hà Nội lại bắn súng làm hiệu và thuê thuyền đi Vân Nam. Sử sách Pháp thuộc địa đồng lọat xác quyết, cốt bêu xấu sự kháng cự quân dân nhà Nguyễn thời vua Tự Đức chống Pháp xâm lăng Việt Nam : rằng đại úy Garnier đã lấy Bắc Kỳ chỉ với không đầy 2 trăm lính mà thôi . Thật sự lúc đầu chỉ có trên 100, nhưng tiếp theo với các chuyến tàu sau, lên đến 500 . Chưa kể 500 quân sĩ của thương gia phiêu lưu Dupuis có sẳn ở Hà Nội từ 2 năm trước. Theo sự dàn xếp nhấm ngầm của thống đốc Dupré, 12000 người, phần lớn là dân đạo, đã nghe lời các Thừa Sai tình nguyện phục vụ trong lục quân của Garnier với súng ngắn - carabines do Sài Gòn gửi ra, trên danh nghĩa “ con cháu nhà Lê” , chống lại Triều Nguyễn ở Huế. Trong lúc hai bên đang điều đình để giải quyết vấn đề tống khứ “lái buôn” Dupuis, Garnier bất thần tấn công chiếm thành Hà Nội trong khỏang 1 tiếng đồng hồ, làm ông Nguyễn Tri Phương bị thương rồi chết. Phò mã Lâm con ông Nguyễn Tri Phương cũng chết vì thương tích và khâm phái Phan Đình Bình , bố chánh Vũ Đường, đề đốc Đặng Siêu, lảnh binh Nguyễn Đăng Nghiễm bị bắt làm tù binh. Năm 1875, nước Pháp bị Đức đánh bại, nay đã bình phục và phe chủ trương bành trướng thuộc địa lớn mạnh trong Quốc hội và Chánh phủ Pháp Ông Le Myre de Vilers được cử sang làm thống đốc dân sự Nam Kỳ đầu tiên, làm áp lực mạnh đòi Việt Nam phải thừa nhận nền Bảo hộ của Pháp, bằng cách ký thêm một phụ ước. Triều đình nhất quyết không chịu . Pháp bất chấp hiệp ước 15-3- 1874, cho đại tá hải quân Henri Rivière mang nhiều chiến hạm và đại quân ra Bắc, tiến lên Hà Nội , đánh chiếm thành này; tổng đốc Hòang Diệu chống cự mảnh liệt , nhưng không giữ nổi phải tự vận . Đại tá Riviere chiếm thêm Nam Định và Hòn Gay và chống lại cuộc tấn công của du kích Việt .Rivière lại yêu cầu trung úy Edgard de Trentinian dẫn một đơn vị tiến chiếm thành Hưng Yên. Nhưng sau đó bị quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc, dưới sự điều động của thống đốc Hòang Kế Viêm, khiêu khích, nhữ đến Ô Cầu Giấy và giết chết sau một trận đánh lớn.( muốn biết thêm chi tiết, ít phản ảnh quan điểm Pháp Thực dân hơn, xin tham khảo hai tập I - 714 trang và II -314 trang: “ Nguyễn Văn Tường 1824- 1886” của hậu duệ đời thứ 3 của ông là Nguyễn Quốc Trị, giáo sư và Viện Trưởng cuối cùng của Học viện Quốc Gia Hành Chánh, xuất bản ở Maryland- Hoa Kỳ, năm 2013 ).
Sau khi chiếm Hưng Yên, Pháp cố gắng cũng cố chánh quyền bù nhìn Bắc Kỳ, một mặt thiết lập nhiều đồn quân trong khi cố gắng làm đồ bản cùng đi sâu vào hệ thống cai trị thôn , xã Hưng Yên . Nhưng gặp nhiều khó khăn trong đó phải kể đến nổi dậy Bải Sậy. Năm 1890 , Pháp thiết lập vùng Bải Sậy gồm các huyện Yên Mỹ , Mỹ (Yên) Hào , Văn Lâm và Cẩm Lương ( nay là Cẩm Giàng ) để dẹp nổi lọan Bải Sậy. Dẹp xong Bải Sậy, Pháp nhập Văn Lâm, Yên Mỹ và Mỹ Hào vào tỉnh Hưng Yên và trả huyện Cẩm Lương ( Cẩm Giàng ) về cho tỉnh Hải Dương.Vũng vào năm 1890 , Pháp tách huyện Thân Khê từ phủ Tiên Hưng , tỉnh Hưng Yên và dùng các phủ Thái Bình và Kiến Xương tỉnh Nam Định , thiết lập một tỉnh mới tên là Thái Bình . Sau đó Pháp tiếp tục chia cắt các huyện Hưng Nhân và Duyên Hà , chuyễn Huyện Tiên Lữ ( trước kia thuộc vùng Tiên Hưng ) nhập thành phủ Khóai Châu. Từ đó , sông Luộc luôn luôn là ranh giới hai tỉnh Hưng Yên Và Thái Bình , kéo dài cho đến cuộc Cách Mạng Việt Minh tháng 8 năm 1945.
Ngày 26 tháng giêng năm 1968 , Quốc Hội quyết định nhập hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng. Hai huyện Văn Giang và Yên Mỹ sáp nhập vào huyện Văn Yên; Tiên Lữ và Phù Cừ thống nhất thành huyện Phù Tiên ; Văn Lâm và Mỹ Hào thành huyện Văn Mỹ ; Kim Động và Ân Thi thành huyện Kim Thi; Văn Yên và Vân Mỹ thành Mỹ Văn , Khoái châu và Văn Giang thành huyện Châu Giang .
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc Hội lại chấp thuận chia Hải Hưng ra thành hai tỉnh Hải Dương và Hưng Yên. Hưng Yên ngày nay có một thị xã tỉnh lỵ là Hưng Yên, 9 thị trấn và 9 huyện: Văn Lâm ( thị trấn à Đinh Dù, Văn Giang ( thị trấn Văn Giang ), Mỹ Hào ( thị trấn là Bần Yên Nhân) , Yên Mỹ ( thị trấn Yên Mỹ ), Khoái Châu ( thị trấn Khoái Châu ), Ân Thi ( thị trấn Ân Thi ), Kim Động ( thị trấn Nghĩa Dân ),Tiên Lữ ( thị trấn làThụy Lôi ?) và Phù Cừ ( thị trấn là Minh Tân ) .
L