Vài điểm then chốt, khó khăn khoa học kỷ thuật, Việt Nam nên biết thêm chăng ?
G S Tôn Thất Trình
I - Mắt nhìn trên trời và dưới biển
Cả hai biển Đông và Biển Tây nước nhà đều có thể ngoại quốc xâm lấn. Vì vậy nước nhà cần ngòai tăng cường bảo vệ an ninh, định cư cho đông đúc thêm ở các quần đảo, đảo lớn, đảo nhỏ, gần biển hay xa bờ, phát triễn thêm kinh tế , xã hội v.v... các vùng biển bị đe dọa này, cha ông đã dày công thám hiểm, khám phá và xây dựng phần nào . Sau đây là một kỷ thuật mới then chốt, phối hợp những cái nhìn trên trời biển va xuống đáy biển, chiếu theo nguyệt báo Khám Phá - Hoa Kỳ đăng tải, tháng tư năm 2014.
Các nhà đại dương học đã vẽ đồ bản sàn đáy biển và theo dấu các lòai biển đang bị hiểm nguy mấy chục năm nay rồi , sử dụng những xe hơi dưới nước tự quản AUV - atonomous under water vehicles . Thế nhưng đại dương quá đồ sộ, là một hệ thống sinh thái di động liên tục 3 chiều, khiến cho việc quan sát được chính xác, đúng thời gian thật sự, đời sống biển và các điều kiện đại dương, như nhiệt độ, dòng chảy và độ mặn… , thật là thách đố và quá ư tốn kém. Vì lý do này,không thể nghiên cứu rành mạch hiện tựợng thể khối đại trà trên những phạm vi không gian lớn lao và nhất thời. Theo Kanna Rajan, một kỷ sư thuộc Viện Khảo cứu Bể Nuôi Cá - Aquarium Research Institute Vịnh Monterey” nghiên cứu thông minh nhân tạo có khả năng làm quyết định , “ bạn không thể làm việc này với một tàu thủy”. Cho nên ông muốn làm việc này với rô bốt .
Khi Rajan gặp Joao Sousa, một kỷ sư thuộc Viện Đại học Porto ở Bồ Đào Nha , một ý tưởng về cách nào nghiên cứu các đại dương theo đúng thời gian thật sự - real time 3-D, đã nẩy sinh. Sousa vừa mới diễn thuyết gợi ý rằng muốn thật sự nghiên cứu đại dương , bạn cần có một mạng lưới to lớn rô bốt, họat động cùng nhau , không khâu nối thu thập dữ liệu. Sousa đã có hạ tầng cơ sở nối các AUV với nhau, nhưng ông lại cần một rô bốt thông minh để xây đắp hạm đội mình . Và Rajan đã biết là ông có thể làm lập trình cho một rô bốt đủ thông minh làm phận sự. Cả hai đồng ý mau lẹ hợp tác.
Sousa đã có một hạm đội rô bốt dưới nước, nhỏ, hình dáng thủy lôi, ông dùng thám hiểm nhưng vùng biển cạn, ngòai khơi nước Bồ Đào Nha. Mỗi rô bốt trang bị nhiều máy dò để đo lường tính dẫn điện, nhiệt độ, và bề sâu biển. Rajan thiết kế một phần mềm giúp các rô bốt làm quyết định một cách tự quản. Phần mềm giúp những xe hơi có được “ thông minh - smarts” . Thay vì phải nói: quay phải và lặn xuống, tôi muốn anh làm nghiên cứu ở vùng này . Đúng như một Roomba ở biển cả đại dương: bạn chỉ cần mở máy thả lỏng chúng và chúng lặn xuống, thu thập các đo lường, tự điều chỉnh đường đi và trở về truớc khi bình điện hết điện.
Năm 2013, hai ông đã thử nghiệm các ý kiến này ở bờ biển miền Nam Bồ Đào Nha, hầu chứng minh là mạng lưới rô bốt có thể theo dõi một mục tiêu di động. Từ đuôi một tàu Hải quân Bồ đào Nha, hai nhà khoa học và nhóm họ đã phóng ra nhiều AUV vào nước. Rồi họ ném trên chúng một phao hình trụ lng thang, để phát thanh vị trí đến các AUV và xem đó là một điểm nóng hổi - hotspot , giúp các xe dưới nước liên lạc với các xe trên không và chiếc tàu hổ trợ .
Yếu tố thứ 3 là một con mắt trên trời: một máy bay cánh cố định ra khỏi giá, dài 1.80 m, có một máy chụp hình GoPro ráp nhẹ nhàng sau mũi máy bay. Khi máy bay không nguời lái- một drone trên không chấm nhận ra phao, các xe dưới và trên mặt nước tụ về vùng này để đo lường môi trường đại dương chung quanh đó: hướng các dòng, tốc độ, uy lực, nhiệt độ và tỉ trọng nước biển.
Tháng 5 năm 2014, đòan thám hiểm sẽ làm thí nghiệm 3 chiều ở mức cao hơn. Thay vì một phao nổi, drone bay và các xe dưới nước, sẽ theo dấu một con cá tên gọi là Mola mola hay cá mặt trời đại dương - ocean sunfish, một lọai cá nặng đến 5000 cân Anh ( 4 tấn rưỡi ) có một thói quen xấu xa là hay mắc lưới các lồng nuôi cá ngừ thương mãi. Các nhà sinh học biển họat động cùng Rajan và Sousa, sẽ đóng thẻ GPS vào 20 con cá khổng lồ hiền lành này, gửi các drone và xe dưới nước đuổi theo cá nhiều ngày, để học hỏi hơn nữa về chu kỳ đời sống chúng, cùng thói quen chúng ăn.
Khi hai cặp kỷ tuật biển và phần mềm cải thiện, họ hy vọng là sẽ làm cho các xe dưới nước, trên mặt nước và trên không thật sự tự quản- tự trị, đủ khả năng vừa liên lạc với nhau, vừa làm quyết định tự mình, theo lờI Rajan. Như thế, đây là lần đầu tiên có thể điều nghiên hiện tượng kích thước lớn, tỉ như các tiền tuyến đại dương, các xóay lốc - eddies và các nở rộ, cũng như nghiên cứu di chuyễn và môi trường các động vật biển, có cơ lặn sâu đến mức độ con người không chịu đựng nổi.
“ Bước tiến xau đó là họ sẽ đặt một tổng thể xe và nói với chúng là tự hình dung ra những gì cần làm .
II- Cách nào lưu tâm đến ánh sáng ?
Ở một la bô Cambridge, bang Massachussetts- Hoa Kỳ, một phòng chân không, kích thước một hộp đựng giày, đang tạo lịch sử. Tại đây, nhà vật lý học Harvard Ofer Firstenberg đã tạo ra một chất liệu dạng mới: một cặp quang tử- photons dính vào nhau. “ Phân tử ánh sáng- light molecule” này có tiềm năng làm thành những khối xây dựng, sử dụng vài lọai ánh sáng sờ mó được, tỉ như các chạm trỗ ánh sáng - light sculptures hay gươm giáo ánh sáng- light sabers đến ( có thể thực tiễn hơn ) các computers , làm được những tính tóan phức tạp rộng lớn hơn nhiều máy tính ngày nay .
Khác các nguyên tử và chất liệu làm ra chúng, hai photon này trên đường đụng độ nhau, sẽ đơn giản đi xuyên ngang qua nhau mà không hề tương tác nhau. Hầu giúp cho các photon dính nhau, bước đầu tiên của mọi kỷ thuật vừa kể ra, Fistenberg và nhóm ông dùng một sắp đặt họ đã mất nhiều năm hòan thiện. Họ thiết bị một hộp kim lọai đặc thù bằng laser một phía bên, để cho chỉ có một photon lọt ra ngòai một lúc nào đó. Photon thứ nhất trượt trên một đám mây các nguyên tử rubidium, đã được lựa chọn vì làm lạnh chúng dễ dàng đến một cực điểm chúng gần như bất động. Rồi photon thứ hai đi vào đám mây. Cuối cùng hai photons dính nhau và di chuyễn tiến tới, như thể là một phân tử gồm hai nguyên tử.
Tương tác giữa hai photons giúp cho một photon thay đổi thông tin hạt lượng - quantum information photon kia mang theo, bằng cách thay đổi những đặc tính nó ( tỉ như động năng - momentum và tính phân cực - polarisation ). Cách kiểm sóat trên ánh sáng này sẽ giúp các nhà khảo cứu họat động ở máy computers hạt lượng, những máy thế hệ kế tiếp sử dụng photons thay vì điện tử âm - electrons ở tính toán. Chúng có thể dựa vào ưu điểm của các luật rỡm, không chắc chắn cơ học hạt lượng, mà thành quả sẽ là những linh kiện thổi bay trong bụi bặm những computers hiện hửu.
Điều này còn lâu lắm mới thực hiện xong. Nay, Firstenberg và các đồng nghiệp đang từ từ xây dựng hiểu biết của họ về chất liệu mới mẽ lạ lùng này và cách nào chúng họat động bằng bước tiến kế tiếp hợp lý : họ đang cố gắng làm ra một phân tử ánh sáng gồm 3 photon.
III- Câu hỏi của Gary D . Pogoler, Chicago : Thế vướng mắc hạt lượng - quantum entanglement, giúp hiểu biết vị trí cùng lúc và tốc độ các hạt tử phụ nguyên tử, có làm mất hiệu lực nguyên tắc không chắc chắn không ?
Câu trả lời của Adam Hadhazy, báo Khám Phá
Trước tiên, hãy lùi một phút. Khi hai hạt tử, gọi chúng là photon A và photon B “vướng mắc” nhau, điều này có nghĩa là đo lường đặc tính của photon A ( chẳng hạn, vị trí của nó ) tiết lộ giá trị của cùng một đặc tính cho photon B. Tuy nhiên, theo nguyên tắc không chắc chắn, các nhà vật lý học chỉ có thể biết nhiều như vậy về hai đặc tính liên hệ nhau của một hạt tử cùng một lúc . Chẳng hạn, càng chắc chắn thêm lên về vị trí của một photon ( nơi nó đang ở ) thì lại càng ít biết hơn tính chất động năng của nó ( nơi nó đang tiến tới ) .
Bạn nghĩ rằng, theo lý thuyết, ai đó có thể làm những đo lường riêng rẽ cho các photon A và B bị vướng mắc (tỉ như vị trí của A và động năng của B ) và như vậy biết rỏ cả hai giá trị cho mỗi một photon, và có vẽ như là vi phạm nguyên tắc không chắc chắn . Nhưng bước tiến đo lường một đặc tính nào đó ( có cơ tiết lộ thật sự là chúng bị vướng mắc ) sẽ phá vỡ trước hết các vướng mắc hạt tử cho bất cứ đặc tính nào khác. Cho nên,ai đó có thể biết vị trí dứt khóat của B xuyên qua vị trí của A, rồi động năng của B cũng sẽ không có ảnh hưởng nào trên giá trị động năng của A. Tính chất không chắc chắn vẫn duy trì.
IV . Tại sao công Randy lại gáy - húyt lên ?
Trong một chuyến du hành đến công viên Tây Bắc Ấn Độ Keoladeo National Park, năm 2011, Jessica Yorzinski một nhà sinh học hậu tiến sĩ Viện đại học Duke ngồi bên trong một vải bạt săn bắn. Nhiệt độ chai sạn mặt mày làm cho máy chụp hình ghi chép - camrecorder hư hỏng. Các động vật có lẽ là chó rừng gầm gừ và cào vải bạt, trong khi một loa phát ra một tiếng gáy- húyt ồn ào, lạ lùng. Bà ta đang quan sát các con công mái - peahens lại gần.
Chúng lại gần, thường xuyên hơn những lần Jessica huýt lên những tiếng gọi công trống - peacocks đặc biệt đến đạp mái -mating call , gọi là một gáy - húyt phô trương - hoot dash hơn là khi bà im lặng. Các động vật đực thường dùng tiếng gọi kêu cái để hút dẫn động vật cái, nhưng tiếng húyt phô trương thật là đặc thù : công trống Ấn Độ màu xanh dương phát ra một tiếng gáy húyt mê ly trước khi đổ xô ít hơn một mét, đến các công mái để đạp mái . Yorzinski nói rằng rất ít lòai vật phát ra những tiếng gọi cầu hôn trực tiếp trước khi giao cấu. Nhưng tiếng gọi này không những tốn hơi sức, mà còn có thể hút dẫn các thú bắt mồi như chó rừng, cọp và báo - beo. Trong thời gian Jessica thử nghiệm khảo cứu, vài thú bắt mồi đến gần, nhưng không một thú nào tấn công cả .
Vậy tại sao công trống lại vô tâm liều lĩnh như thế ? các quan sát của Yorzinski cho thấy là tiếng gáy phô trương hút dẫn các con mái khác, tăng thêm cơ hội con trống làm tình. Dù công trống trưng bày đuôi nổi bật và khệnh khạng bất hủ, loài công cần giúp đở để tìm nhau trong rừng rậm và lùm bụi um tùm. Yorzinski tin là công mái có thể đủ khả năng giải mã tiếng gáy của công trống để có thông tin hửu ích, tỉ như kích thước và tình trạng chủ trì của công trống. Và những con thường hay gáy -húyt có thể dùng ưu điểm của hiện tượng gọi là sao chép lựa chọn bạn tình, trong đó con mái thích thú những con trống được nhiều ưa chuộng hơn. Yorzinski thêm: những công mái cần biết rỏ là những công trống thỉnh thỏang sản xuất tiếng gáy khi chúng không muốn đạp mái, tung ra một cảm tưởng dối trá là chúng đang đạp mái. Những nghiên cứu tương lai sẽ giải thíchtại sao công trống lại không giả bộ thường xuyên hơn nữa. Hai giả thuyết: con mái có thể xua đuổi con trống,nếu chúng biết là con trống đang bịp bợm hay các con trống khác sẽ tấn công, nếu chúng tỏ ra là những đối thủ lớn hơn .
V- Nước nhớt -nhờn của sên
Đây là một thế giới động vật ăn thực vật, nơi kẻ tiêu thụ và kẻ bị tiêu thụ khai chiến trong một cuộc đua tiến trào liên tục tranh xem ai đi trước. Các nhà khoa học Viện đại học Wisconsin- Madison đã khám phá một vặn tréo mới trên một chiến lược cỏ mọc bên vệ đường: cỏ tự làm cho mình trở nên ít ngon lành hơn, khi chúng cảm giác là một lòai ăn cỏ đến gần, thay vì chờ đợi bị tấn công .
Nhà sinh học John Orrock, nghiên cứu cách nào động vật cân bằng nhu cầu bảo vệ chúng khỏi nanh vuốt thú bắt mồi cùng với những nhu cầu khác, tỉ như ăn hay làm tình, sanh ra ý kiến cho khảo cứu này khi ông nghiên cứu các con sên ở đồng cỏ bang California. Ông đã biết là cây cối - thực vật , có thể thay đổi cấu tạo hóa học để tự bảo vệ lấy mình, khi bị tấn công, hay chỉ bị sờ mó của một lòai ăn cỏ đang đói lòng – hungry herbivore. Thế nhưng nếu kẻ tấn công chỉ luẩn quẩn xung quanh, tìm kiếm những lựa chọn ? Sự kiện là các con sên nhả ra một chất nhớt chứng tỏ hiện diện chúng làm ra những tiêu đề hòan tòan, hầu nghiên cứu cách nào thực vật có cơ giải đáp chống lại một kẻ thù lẫn vẩn, nhưng lại chưa tấn công ?
Orrock và các bạn đồng nghiệp tuơi vào các cây cải con mù tạt- mustard seedlings , mộy lòai cây hàng niên thông thường tìm thấy khắp thế giới, dùng nước pha thêm cặn bả nhờn nhớt của các con sên vườn tượt thông thường, một thú bắt mồi thiên nhiên. Cách chửa trị này tưới 5 lần suốt hai tuần lễ , bắt chước các sên bò trên cây cỏ , lựa chọn lá xanh nào ngon nhất để ăn và đặt các chất nhờn, khi chúng bỏ đi. Các nhà khảo cứu đặt những cây này , song song vói các cây không tưới chất nhờn , vào trong các hộp với những sên đói lòng. Các cây mù tạt liên tiếp nhận nước pha nhờn đều ít khi bị sên ăn.
Cái gì trong chất nhớt của sên đã kích động phản ứng các cây và chính xác hơn cách nào các cây cỏ đã tự làm chúng ít ngon miệng hơn cho sên thì còn chưa rỏ ràng gì cả thảy. Orrock nói: Ai đó họat động trên động vật nhận thức thế giới là một nơi giàu có thông tin, và các động vật chú tâm đến các thông tin này. Nhưng như khảo cứu của ông cho thấy, đông vật không là những kẻ duy nhất hòa điệu theo điều này. Thế giới thực vật còn nhiều thích thú hơn là chúng ta tưởng đến !
( Irvine, ngày 15 tháng 4 năm 2014, phỏng theo nguyệt san Khám Phá số tháng 4- 2014 )
|