.
  Gò Công: Địa lý, thổ nhưỡng..(chương 2 bài 1)
 
11/1/2015

CHƯƠNG 2
 
 
 

Bài 1
 
 
 
 
1.      Mở đầu
 
Gò Công hiện nay gồm 3 huyện và một thị xã: Gò Công Đông, Gò Công Tây, Tân Phú Đông[1] và Thị xã Gò Công, là một vùng đất được thành lập cổ xưa và là một cửa ngõ quan trọng của Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hướng đến một thành phố lớn nhứt nước - thành phố Sài Gòn. Vùng đất này tùy theo từng giai đọan lịch sử có lúc là một tỉnh có khi một quận hay huyện, nhưng Gò Công vẫn là Gò Công muôn thuở, có những nét đặc thù địa phương không thay đổi nhiều với thời gian.
Vùng đất Gò và cả ĐBSCL có khí hậu tương đối điều hòa, không thường bị bão lũ tàn phá mỗi năm như Miền Bắc và Miền Trung, nhưng cũng trải qua một trận bão khủng khiếp xảy ra năm Giáp Thìn 1904 làm thiệt hại vô số tài sản, vật chất và hơn 5.000 mạng người. Đất Gò có vị trí ưu đãi so với một số nơi khác ở Nam Bộ, nhờ tiếp cận với Biển Đông, Sài Gòn, Bà Rịa-Vũng Tàu, tỉnh Long An, sông Tiền và một bộ phận của tỉnh Tiền Giang. Dù thế, vùng đất này không được phát triển mạnh trong gần bốn thập niên qua so với các huyện khác của tỉnh, do địa thế cô lập bởi sông ngòi và biển cả, cũng như thiếu hạ tầng cơ sở cần thiết để đất Gò có cơ hội tiến lên đồng bộ với các huyện hoặc tỉnh, thành phố lân cận.                                           Tuy nhiên, tiềm năng đất Gò rất lớn đang chờ những bàn tay khéo léo và những bộ óc lãnh đạo năng động nhiệt tình để giúp người dân có đời sống mới, tiến bộ và phồn thịnh hơn trong khi dân số ngày càng tăng trên một vùng đất khô cằn và hạn hẹp.
 
 
2.   Vị Trí Địa Lý và Địa Hình
 
 
Vị trí địa lý: Gò Công ngày nay thuộc tỉnh Tiền Giang, nằm kề Biển Đông với bờ biển dài 32 cây số, trên bờ Bắc sông Tiền của ĐBSCL, chỉ cách Sài Gòn 45 cây số đường chim bay và 58 cây số với Quốc lộ 50.
 

 
Hình 1: Bản đồ Gò Công và Tiền Giang
 
Năm 2005, do công văn số 4973/VPCP-ĐP ngày 03/9/2005 của Văn phòng Chính phủ thông báo tỉnh Tiền Giang gồm có Gò Công Đông và Gò Công Tây được bổ sung gia nhập vào Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, gồm 7 tỉnh và thành phố: Vũng Tàu-Bà Rịa, Đồng Nai, Bình Dương, Sài Gòn, Tây Ninh, Bình Phước, Long An.
Gò Công gồm có 4 đơn vị cấp Huyện: Thị xã Gò Công, huyện Gò Công Đông, huyện Gò Công Tây và huyện Tân Phú Đông, 2 Thị trấn: Vĩnh Bình (Gò Công Tây) và Tân Hòa (Gò Công Đông), và 32 xã.
             Diện tích đất thiên nhiên là 862,98 km2, chiếm 34% tỉnh Tiền Giang; dân số 454.563 người (2009) gồm Thị xã Gò Công 53.699 người, Gò Công Đông 190.177 người, Gò Công Tây 167.761 người và Tân Phú Đông 42.926 người; chiếm 27% cả tỉnh và mật độ khá cao: 527 người/km2. Tổng số diện tích đất thiên nhiên của tỉnh Tiền Giang là 2.481,8 km2 với tổng dân số 1.670.216 người (2009) và mật độ 706 người/km2.
 
Ranh giới hành chánh: Gò Công giáp với Biển Đông và Thành phố Sài Gòn phía Đông; huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An phía Bắc; huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang phía Tây; và tỉnh Bến Tre phía Nam. Tọa độ địa lý từ 10o12’20" đến 10o35’26" vĩ độ Bắc và từ 106 o58’68’’ đến 106o73’28" kinh độ Đông (Hình 1).
Hiện nay, vùng đất Gò Công gồm có 3 huyện, 1 thị xã, 2 thị trấn, 5 phường và 37 xã:
Thị Xã Gò Công nằm giữa Gò Công Tây và Gò Công Đông, là một trung tâm hành chánh, kinh tế, văn hóa, giáo dục và thương mại của vùng đất Gò. Thị xã gồm có 5 phường và 7 xã.
Huyện Gò Công Đông: Phía Bắc giáp với huyện Cần Đướchuyện Cần Giuộc của tỉnh Long An; Nam giáp huyện Tân Phú Đông cùng tỉnh; Tây giáp huyện Gò Công Tâythị xã Gò Công; Đông Bắc giáp sông Soài Rạp ngăn cách với huyện Cần Giờ của thành phố Sài Gòn; Đông giáp Biển Đông. Về hành chánh, huyện gồm có thị trấn Tân Hoà và 12 xã.
Huyện Gò Công Tây: Bắc giáp sông Tra - một nhánh của sông Vàm Cỏ, ngăn cách với huyện Châu Thành của tỉnh Long An; Nam giáp sông Cửa Tiểu, ngăn cách với huyện Tân Phú Đông cùng tỉnh; Tây giáp huyện Chợ Gạo cùng tỉnh; Đông giáp huyện Gò Công Đôngthị xã Gò Công. Về hành chánh, huyện bao gồm thị trấn Vĩnh Bình và 12 xã.
Huyện Tân Phú Đông: Năm 2008, do Nghị Định Số: 09/2008/NĐ-CP Huyện Tân Phú Đông được thành lập ở cù lao Lợi Quan (giữa vàm Cửa Tiểu và Cửa Đại), gồm có 6 xã được lấy từ huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây.
 
Địa hình: Gò Công không có đồi núi, đất đai khá bằng phẳng, xen kẽ với các giồng đất cát, độ cao khoảng 0,4 - 0,8m trên mặt biển và độ dốc nhẹ dưới 1% từ hướng Tây qua Đông.
Gò Công giới hạn từ phía Đông kinh Chợ Gạo đến biển Đông, có cao độ biến thiên từ 0,8m và thấp dần theo hướng Đông Nam, ra đến biển Đông chỉ còn từ 0,4 đến 0,6m. Có hai vùng trũng cục bộ tại xã Thạnh Trị, Yên Luông, Bình Tân (Gò Công Tây) và Tân Điền, Tân Thành (Gò Công Đông). Do tác động bồi lắng phù sa từ cửa Soài Rạp đưa ra, khu vực ven biển phía Bắc (Tân Trung, Tân Phước, Gia Thuận, Vàm Láng) có độ cao hơn hẳn khu vực phía Nam.
Tại vùng này, còn có rất nhiều giồng cát biển hình cánh cung có cao độ phổ biến từ 0,9 đến 1,1m nổi hẳn lên trên các đồng bằng chung quanh, nơi trồng nhiều lọai cây ăn quả và rau cải nhờ có nước ngọt trong lòng đất quanh năm.
 
3.   Khí Hậu (1)
Một cách tổng quát, Gò Công có những đặc tính của khí hậu Đồng bằng sông Cửu Long, chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, hàng năm có 2 mùa mưa và nắng rõ rệt; cho nên, rất thuận lợi cho phát triển ngành nông ngư nghiệp.
            Nhiệt độ: Do vị trí vùng ở gần xích đạo nên nhiệt độ tương đối ổn định, nóng ẩm, không khác biệt theo mùa rõ rệt. Nhiệt độ trong năm tương đối cao từ 15o C - 39o C, trung bình khoảng 27,9o C.
Mưa: Vũ lượng trung bình hàng năm 1.200 mm, giảm nhẹ từ Gò Công Tây qua Gò Công Đông. Mùa nắng bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, thường trùng với gió Đông Bắc mang đặc tính khô lạnh xen kẽ gió Đông Nam (gió Chướng) làm thời tiết mát mẻ, và mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 với gió Tây Nam (gió mùa), tốc độ trung bình 2,5 - 6m/s.
            Ẩm độ: Trong năm ẩm độ trung bình là 79,2%, cao nhất là 98% mùa mưa, thấp nhất 48% mùa khô, nước bốc hơi mạnh vào mùa nắng và thấp nhất vào mùa mưa, gây ảnh hưởng nhiều đến tình trạng sinh trưởng và phát triển của thảo mộc.
 
4.      Thổ Nhưỡng (2)
Gò Công có 3 nhóm đất chính:
-          Nhóm đất phù sa: Gồm một phần đất của huyện Gò Công Tây do phù sa sông Tiền Giang (Cửu Long) bồi đắp, có nước ngọt rất phù hợp cho phát triển nông nghiệp lâu đời. Thành phần đất đai nhẹ rất thích hơp cho trồng cây ăn quả và làm nương rẫy cung cấp rau cải cho các thị trấn.
-          Nhóm đất mặn: Nhóm đất này chiếm 34.143 ha hay 14,6% diện tích thiên nhiên tỉnh, bao gồm phần lớn diện tích huyện Gò Công Đông, thị xã Gò Công, Gò Công Tây và một phần huyện Chợ Gạo. Lọai đất đai này thuận lợi như nhóm đất phù sa, nhưng bị nhiễm mặn từng thời kỳ hoặc thường xuyên. Nếu được rửa mặn, loại đất này sẽ thích hợp cho việc sản xuất nông nghiệp với cây trồng tương đối đa dạng hoặc có thể phát triển nuôi trồng thủy sản (tôm sú, cá, sò, ốc, nghêu…). Nhóm đất mặn được chia làm 4 đơn vị đất:
i)        Đất mặn dưới rừng ngập mặn (Mm) ở cửa Soài Rạp, Cửa Đại chiếm 3.263 ha hay 1,4%.
ii)      Đất mặn nhiều (Mn) ở nơi có địa hình thấp ven biển dọc theo các cửa sông có diện tích tự nhiên là 5.747 ha hay 2,5%. Đất mặn là do nước mặn thấm từ lòng đất lên mặt đất.
iii)    Đất mặn trung bình (M) ở trên đất cao và xa biển, sông rạch có diện tích tự nhiên là 13.232 ha hay 5,2%.
iv)    Đất mặn ít (Mi): đất mặn được cải tạo do canh tác nhiều năm có diện tích thiên nhiên là 12.902 ha hay 5,5%.
 
             Đất rừng ngập mặn và đất mặn nhiều thường khó cải tạo nên được khai thác nuôi trồng thủy sản. Còn đất mặn ít và trung bình được trồng lúa vào mùa mưa hay những loại cây chịu mặn. Vùng này, đặc biệt Gò Công Đông đã được ngọt hóa nên nông dân có thể trồng 2 hoặc 3 vụ lúa và rau cải mỗi năm.
-   Nhóm đất cát giồngchiếm 3,1% diện tích tự nhiên với 7.336 ha, phân bổ rải rác ở huyện Gò Công Tây và tập trung nhiều nhất ở huyện Gò Công Đông. Đất cát giồng có địa hình cao, mầu mỡ, có mạch nước ngọt quanh năm, thành phần đất cát nhẹ; nên chủ yếu được dùng làm đất thổ cư và canh tác cây ăn trái, rau hoa. Các giồng đất nổi tiếng như gò Sơn Quy (Tân Trung), gò Khổng Tước gò Tre (Thị xã Gò Công), gò Cát (xã Yên Luông), giồng ông Huê (xã Vĩnh Bình), giồng Tháp (xã Tân Tây), giồng ông Nguyên (xã Tân Tây), giồng ông Nâu (xã An Hòa), giồng Chùa, giồng Lãnh (xã Tân Đông), giồng Bà Lẫy (xã Tăng Hòa), giồng Đình (xã Tân Thành), giồng Bà Canh, giồng Lức (xã Tân Đông), giồng Trôm (xã Bình Long), giồng Ông Đi (xã Thạnh Nhựt)...
Tóm lại, phần lớn đất đai của cả ba huyện Gò Công đã được khai thác triệt để trong các ngành nông, lâm và ngư nghiệp; đó là nhờ thực hiện các chương trình ngọt hóa, phát triển thủy hải sản và công nghiệp hóa; nhưng còn rất hạn chế. Riêng nông nghiệp, phần lớn nông dân trồng lúa 2-3 vụ mỗi năm, làm vườn cây ăn trái và sản xuất rau hoa, mang về lợi tức đáng kể cho các gia đình nông dân. Tuy nhiên, vì hệ thống thị trường còn nhiều bất cập, giá cả bất định và sự thao túng của các thương lái nên đời sống nông dân và nông thôn chưa được cải thiện nhiều.
 
 
5.      Thủy Văn và Nguồn Nước
 
- Thủy văn: Gò Công nằm trong vùng chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đồng đều từ biển Đông, mực nước cao nhất vào các tháng triều cao (tháng 10, 11), thấp nhất vào các tháng triều thấp (tháng 6, 7). Hàng năm khả năng xâm nhập mặn vào khu vực phía Bắc và Nam của Huyện Gò Công Đông theo hệ thống kênh với độ mặn trung bình trên 4,5 g/lít.
- Nguồn nước: Trước kia, Gò Công Đông chỉ có nguồn nước trời vào mùa mưa, khi mùa nắng dân làng sống nhờ nước ao và sông rạch. Giữa thập niên 1990s, Huyện này có thêm nguồn cung cấp nước ngọt từ hệ tưới chảy tràn, theo hệ thống kênh mương của Chương trình ngọt hóa Gò Công. Nhìn chung hệ thống kênh mương tương đối đầy đủ cung cấp lượng nước ngọt cho đồng ruộng vào các tháng mùa khô, nhưng vài nơi đang xuống cấp cần phải tu bổ và các kênh chính cần nạo vét.
            Đối với Gò Công Tây, phần lớn đất đai may mắn có nguồn nước ngọt quanh năm cung cấp từ sông Tiền Giang; cho nên Huyện này có những vườn cây trái và nương rẫy tươi tốt và đời sống của người dân thôn ấp từ lâu tương đối sung túc hơn Gò Công Đông, nhứt là trước thập niên 1990. Những nơi bị nhiễm nước mặn vào mùa khô đã được cải thiện nhờ chương trình ngọt hóa.
 
6.      Sông Ngòi (2 và 3)
 
- Sông Soài Rạp
Sông bắt đầu từ xã Phú Xuân, Nhà Bè và xã Bình Khánh, Cần Giờ theo hướng Nam đổ ra biển Đông ở cửa Soài Rạp. Sông là ranh giới thiên nhiên giữa Gò Công Đông và thành phố Sài Gòn. Sông này được chính thức khai thông luồng tàu biển mới từ Vũng Tàu vào cảng nước sâu Hiệp Phước ở Nhà Bè và Sài Gòn, song song với sông Lòng Tàu đã được sử dụng hơn thế kỷ qua. Sông có chiều dài 40 cây số, khúc rộng lớn nhứt của sông này là 3.750 m nằm giữa Lý Nhơn, Cần Giờ và xã Gia Thuận, Gò Công Đông. Khúc hẹp nhứt là 750 m. Độ sâu bình quân là 8,5 m, luồng tàu tương đối hẹp và có nhiều uốn khúc. Cửa sông rộng 2.420 m. Chiều sâu khi nước lớn là 9,2 m, khi nước ròng là 7,2 m, tàu có trọng tải nhỏ ra vào dễ dàng. Công tác nạo vét lòng sông Soài Rạp đến 12 m chiều sâu đang tiến hành để các tàu có trọng tải 50.000 tấn (70.000 tấn khi nước lớn) có thể lưu thông dễ dàng đến cảng nước sâu Hiệp Phước (sẽ thay thế cảng Sài Gòn).
Sông Soài Rạp rất nguy hiểm cho ghe thuyền lưu thông trên khúc Vàm Bao Ngược (đoạn tiếp giáp với sông Vàm Cỏ), nhưng rất hữu ích cho chuyên chở hàng hóa và giao thông từ ĐBSCL lên Sài Gòn.
Một là sang ngang Bao Ngược[2],
Hai là vượt sông Vàm Tuần[3] 
 
Anh đi ghe lúa Gò Công,
 
 
Trở về Bao Ngược bị dông đứt buồm.
 
 
Đứt buồm nước chảy có cuồn,
 
Anh đi qua đó dựng buồm chạy luôn. (Ca dao)
- Sông Vàm Cỏ
 
Sông làm ranh giới thiên nhiên giữa hai huyện Gò Công Đông - Tây với tỉnh Long An. Sông Vàm là một dòng sông của đồng bằng sông Cửu Long, với 2 nhánh bắt nguồn từ Campuchia có rất nhiều đọan uốn khúc, nước từ thượng nguồn đổ về hai nhánh Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, đến gần Cần Đước 2 nhánh nhập một (ở ngã ba Bần Quỳ, huyện Tân Trụ, Long An) rồi đổ ra Biển Đông qua cửa Soài Rạp. Sông Vàm Cỏ có chiều dài 39 km chảy trong địa phận của Gò Công (từ vàm sông Tra, một chi nhánh của sông Vàm Cỏ ở Bình Xuân, Gò Công Đông) trước khi đổ vào cửa Soài Rạp để ra biển Đông. Sông rộng từ 420 m (gần vàm sông Tra) đến 3.100 m (chỗ hợp lưu với sông Soài Rạp), sâu 6 - 10 m, tốc độ chảy 0,4 - 1 m/giây, các ghe tàu có trọng tải lớn lưu thông được. Lượng nước chảy qua sông vào mùa lũ tại Tân An trung bình từ 1.000 đến 1.200 m3/s, cao nhất khoảng 2.300 m3/s.
Hầu hết sông, rạch trên địa bàn Gò Công chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều không đều. Đặc biệt vùng cửa sông có hoạt động thủy triều rất mạnh, biên độ triều tại các cửa sông từ 3,5 - 3,6m, tốc độ truyền triều 30km/h (gấp 1,5 lần sông Hậu và 3 lần sông Hồng), tốc độ chảy ngược trung bình 0,8 - 0,9m/s, lớn nhất lên đến 1,2m/s và tốc độ chảy xuôi đến 1,5 - 1,8m/s.
Trong mùa lũ, một phần lượng nước từ sông Tiền chảy tràn vào Đồng Tháp Mười và thoát ra biển qua sông Vàm Cỏ Tây, nhưng khả năng tháo lũ của sông nầy rất kém vì có quá nhiều đoạn uốn khúc. Nước đổ về vào đầu và giữa mùa lũ thường là nước nhiễm phèn vì chảy qua Đồng Tháp Mười. Vào mùa cạn, hầu như toàn bộ sông Vàm Cỏ hoàn toàn bị thủy triều bán nhật của Biển Đông chi phối, nước biển dễ dàng lấn sâu về phía thượng nguồn. Sông Tra, rạch Gò Công, và rạch Vàm Tháp là chi nhánh của sông Vàm Cỏ.
 
 
Ước chi anh như đám dừa xanh cuối sông Vàm cỏ
 
Như rặng trâm bầu đón gió cửa Cửu Long
 
Để được sống bên em giữa muôn trùng sóng vỗ
 
 
Ơi người anh yêu, người con gái Gò Công.
 
 
 
- Sông Tiền
Sông là một nhánh thuộc vùng hạ lưu của lưu vực sông Cửu Long[5] và là nguồn cung cấp nước ngọt chính cho nông nghiệp và nước uống. Đọan cuối của sông Tiền thuộc huyện Gò Công Đông và Tây được gọi là sông Cửa Tiểu dài 34 km, rộng từ 800 đến 1.000 m, lòng sông sâu có nhiều tàu lớn qua lại (7).
Sông Tiền chảy 115km qua lãnh thổ Tiền Giang gồm cả Gò Công Tây và Gò Công Đông, độ cao đáy sông từ -6m đến -16m, bình quân -9m, độ dốc đáy đoạn Cái Bè - Mỹ Thuận khá lớn (10 - 13%) và lài hơn về đoạn hạ lưu Gò Công (0,07%). Sông có chiều rộng 600 - 1.800m, tiết diện ướt vào khoảng 2.500 - 17.000m2 và chịu ảnh hưởng thủy triều quanh năm. Lưu lượng mùa khô (tháng 4) khoảng 130 - 190m3/s (3).
 
 
Sông Tiền cá lội huyên thuyên
 
Lòng anh muốn bắt con cá lội riêng một mình
 
 
Sông Vàm Cỏ nước trong thấy đáy
Dòng Cửu Long xuôi chảy dịu dàng
Ai về Mỹ Thuận Tiền Giang
Có thương nhớ gã đánh đàn năm xưa.
Sông Tiền cùng 2 nhánh của nó có liên quan đến tỉnh Tiền Giang là sông Cửa Tiểu, sông Cửa Đại và hệ thống kinh rạch trong tỉnh chịu ảnh hưởng mạnh mẽ chế độ bán nhật triều không đều của Biển Đông. Trong 1 ngày có 2 lần nước lớn (triều cao) với một đỉnh thấp và một đỉnh cao hơn và 2 lần nước ròng với một chân thấp và một chân cao hơn. Hàng tháng có 2 lần nước rong (kỳ triều cường) và 2 lần nước kém (kỳ triều kém).
Khi thủy triều lên sẽ tạo dòng chảy ngược về phía thượng lưu. Nếu lượng nước từ thượng nguồn đổ về thấp sẽ tạo điều kiện thuận lợi để nước biển lấn sâu vào nội địa. Như vậy mùa cạn, đặc biệt vào tháng 4 dl, là thời gian mà nước biển dễ dàng xâm nhập sâu về phía thượng nguồn. Thành phố Mỹ Tho, các huyện Gò Công Đông, Gò Công Tây, Chợ Gạo, Châu Thành và phần cực Đông của 2 huyện Cai Lậy, Tân Phước là vùng chịu ảnh hưởng mặn hàng năm từ sông Tiền và sông Vàm Cỏ. Nói chung từ cuối tháng 12 dl độ mặn nước sông tại khu vực gần cửa sông bắt đầu tăng lên, thời gian độ mặn ≥ 4 gNaCl/l trên sông Cửa Tiểu tại Vàm Kinh (cách cửa sông 3 km) là gần 8 tháng (đầu tháng 1 đến hạ tuần tháng 8 dl), tại cửa rạch Vàm Giồng (cách cửa sông 26,50 km) là 3 tháng (tháng 3, 4, 5 dl), tại vàm Kỳ Hôn (cách cửa sông  42,50 km) là gần 1 tháng. Hiện nay, nhiều đập được xây dựng ở thượng nguồn sông Cửu Long, làm cho nước biển lấn sâu vào lục địa ngày càng trở nên trầm trọng. Năm quốc gia nằm trong lưu vực của sông này cần phải đảm bảo dòng chảy thuận lợi cho người dân trong khu vực.
- Sông Mỹ Tho (Cửa Đại)
Sông là một trong 9 cửa sông Cửu Long chảy đổ ra biển Đông dọc theo phía Nam của huyện Tân Phú Đông, giáp ranh với tỉnh Kiến Hòa, dài 30 km, rộng từ 2.000 đến 2.500 m. Lòng sông có nhiều cồn lớn, nhỏ và ngầm, như cồn Thầy Thiện, cù lao Cậu, cù lao Cô, cù lao Bà Nở (7).


[1] Huyện Tân Phú Đông: mới thành lập ở cù lao Lợi Quan (giữa vàm Cửa Tiểu và Cửa Đại) vào năm 2008, gồm có 6 xã được lấy từ huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây (do Nghị Định Số: 09/2008/NĐ-CP). Trong bài viết này, thông tin Gò Công Đông và Gò Công Tây gồm cà huyện mới này do chưa có thông tin riêng rẽ.
[2] Sông Bao Ngược là chỗ gặp nhau giữa hai sông Vàm Cỏ và Sòai Rạp khi chảy vào địa phận Gò Công, khúc sông này có dòng nước chảy rất mạnh thường gây tai nạn thuyền bè.
 
[3] Sông Vàm Tuần là một nhánh sông ở xã Lý Nhơn, Cần Giờ.
 
Tên Vàm Cỏ: Các tài liệu của Pháp gọi sông Vàm Cỏ là “Vaïco”. “Vaïco” bắt nguồn từ tiếng Khmer “piăm vaïco”, nghĩa là “vàm (piăm) đánh/lùa (vaï) bò (co)”. Điều này cho biết sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây chính là con đường lùa trâu bò thuở xưa của người Khmer (http://vn.360plus.yahoo.com/lecongly83/article?mid=194).
[5]Sông Cu Long hay Mêkông (ch Lào có nghĩa là sông m) bt ngun t vùng núi tuyết trên cao nguyên Tây Tng đ cao 5.000 m. Sông Cu Long chy qua năm quc gia: Trung Quc, Miến Đin, Lào, Thái Lan, Campuchia và Vit Nam. Cu Long là con sông dài nht Đông Nam Á. So vi nhng con sông ln trên thế gii nó được xếp vào hàng th 10 v lượng dòng chy (475 t m3/năm) và chiu dài (4.200 km) đng th 5 v din tích lưu vc (795.000 km2).
 

 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 640982 visitors (2134891 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free