21/8/2014
Phần I
Vài dòng thơ về Hà Nội:
Ai đi về Bắc cho ta nhắn ,
Thăm lại non sông giống Lạc Hồng.
Từ thuở mang gươm đi mở cỏi,
Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long.
( Hùynh văn Nghệ )
Đô kỳ đóng cõi Mê Linh,
Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta.
( Thời Hai Bà Trưng 40-43 ở làng Hạ Lôi, huyện Mê Linh hay huyện Thạch Thất )
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh suơng .
Dấu xưa xe ngựa : hồn thu thảo
Ngõ cũ lâu đài : bóng tịch dương ...
( Bài thơ Thăng LongThành Hòai Cổ của bà Huyện Thanh Quan, khi Thăng Long bị Phú Xuân lấn áp ,thời nhà Nguyễn Phước )
Em là con gái bên khung cửi,
Dệt lụa quanh năm với mẹ già
( Thơ của Nguyễn Bính lúc trú ngụ làng Trung Nha , nổi tiếng về dệt Lĩnh Hà Nội, một lọai lụa tơ tằm mịn, một mặt bóng láng )
Thượng phương thu dạ nhất chung lan ,
Nguyệt sắc nhu ba phong thụ đan .
Tạm dịch : Tiếng chuông buông tàn trong đêm thu,
Ánh trăng như sóng màu phong đỏ.
( Bài thơ Về Chùa Một Cột của Huyền Quang )
Gió đưa cành trúc la đà ,
Tiếng chuông Trấn Võ , canh gà Thọ Xương.
Mịt mù khói tỏ ngàn sương,
Nhịp chày Yên Thái , mặt gương Tây Hồ.
( Ca Dao về Hà- Nội, Thăng Long )
Chày Yên Thái nện trong sương lỏang chỏang
Lưới Nghi Tàm ngăn ngọn nước quanh co .
( Thơ của Nguyễn Huy Lượng về làng Nghi Tàm, nổi tiếng thời nhà Lý về chăn tằm dệt lụa)
Nghìn thu gặp hội thái bình
Trải xem phong cảnh khắp thành Thăng Long
Phố ngòai bao bọc thành trong,
Cửa Nam, Giám, Bắc, Tây, Đông rỏ ràng.
Ba mươi sáu mặt phố phường.
Hàng giấy , Hàng Bạc , Hàng Ngang , Hàng Đào …
( Ca dao về Hà Nội xưa băm sáu phố phường )
Nhớ ngày mồng bảy tháng ba,
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy
( Ca dao nói về Chùa Láng, quận Đống Đa, thờ Từ Đạo Hạnh vị sư nổi tiếng thời Lý)
Thành mới trăng xưa bóng tỏ mờ
Thăng Long đô cũ dấu còn trơ .
Phố phường rộng mở quên đường cũ,
Đàn sáo rầy pha khác điệu xưa…
Việc đời chìm nổi than chi nữa !
Mái tóc mình nay cũng bạc phơ .
( Bài thơ chữ Hán Thăng Long thế kỷ 18 của Nguyễn Du, Vũ Mộng Hùng dịch )
Trăm năm đồng tượng vẫn còn,
Mà năm triều cửa vàng son đã tàn.
Riêng còn mây đẹp Dâm Đàm,
Trước rèm hoa ấy theo làn gió bay .
(Hoa Bằng dịch thơ chữ Hán của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, thế kỷ 19, về Hồ Tây )
Vị trí
Trước khi nới rộng thành Vùng Thủ đô, Hà Nội nằm ở trung tâm Đồng Bằng sông Hồng từ 20 053’ đến 21033’ vĩ tuyến Bắc và từ 105044’ đến 106002’ kinh tuyến Đông. Lúc đó, Hà Nội tiếp giáp 6 tỉnh ( xem hình kèm ): Thái Nguyên ở phía Bắc; Bắc Ninh, Hưng Yên ở phía Đông; Vĩnh Phúc ở phía Tây; Hà Tây và Hà Nam ở phía Nam. Diện tích tự nhiên tòan thành phố chiếm 927.39 km2. Dân số , tính đến tháng tư năm 1999 là 2672 1000 người . Ngày 29 tháng 5 năm 2008, chánh quyền quyết định đến ngày 1 tháng 8 năm 2008, nhập tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình tăng gấp ba diện tích TP Hà Nội lên 3 340. 70 km2 , dân số là 6 232 940 người. Năm 2013 , dân số là 7.100 000 người, còn kém xa Sài Gòn , TP HCM . Nay lại nới rộng thêm thành Vùng thủ đô Hà Nội - Metropolitan area, diện tích lên đến 13 436 km2 ( 5 188 dặm Anh vuông )và hy vọng đạt 15 triệu người vào năm 2020. Vị trí trung tâm thủ đô Hà Nội là 2102’0” vĩ tuyến Bắc và 105051’0” kinh tuyến Đông . Thành phố Hà Nội nằm ở hửu ngạn sông Hồng, cách TP Sài Gòn -HCM 1760 km ( 1090 dặm Anh ) về phía Bắc và TP Hải Phòng 120km ( 75 dặm Anh ) về phía Tây .
Về phương diện hành chánh, nay Hà Nội chia ra làm 1 thị trấn là Sơn Tây ( 181 831 người, 15 phường ), 10 quận- urban districts và 17 huyện - rural districts. 10 quận là : Ba Đình ( 228 352 người, 14 phường ), Cầu Giấy ( 147 000, 8 phường ), Đống Đa ( 352 000, 21 phường ), Hai Bà Trưng ( 378 000, 20 phường ), Hà Đông ( 198 687, 17 phường), Hòan Kiếm ( 178 073, 18 phường ), Hòang Mai ( 216 277, 14 phường ), Long Biên ( 170 706 , 14 phường ), TâyHồ ( 115163, 8 phường ) và Thanh Xuân ( 185 000, 11 phường ). 17 huyện là : Ba Vì ( năm 1999 là 242 600 người, 31 xã và 1 thị trấn ), Chương Mỹ ( năm 1999 có 261 000, 30 xã và 2 thị trấn ), Đan Phượng ( 124 000, 15 xã , 1 thị trấn ), Đông Anh ( 276 7590, 23 xã, 1 thị trấn ), Gia Lâm ( 205 275 người, 20 xã , 2 thị trấn ), Hòai Đức ( 188 800, 16 xã, 1 thị trấn ), Mê Linh ( năm 2008 187 536 người, 16 xã , 2 thị trấn ), Mỹ Đức ( năm 1999 có 167 700 người, 21 xã, 1 thị trấn ), Phú Xuyên ( 181 500, 26 xã, 2 thị trấn ), Phúc Thọ ( năm 2001 có 154 800 người, 25 xã, 1 thị trấn ), Quốc Oai ( năm 2001 có 146 700 người, 20 xã, 1 thị trấn ), Sóc Sơn ( 254 500 người, 25 xã, 1 thị trấn ), Thạch Thất ( năm 2003 có 149 000 người , 22 xã , 1 thị trấn), Thanh Oai ( năm 1999 có 142 600 người , 20 xã, 1 thị trấn ), Thanh Trì ( 241 000 người, 15 xã,1 thị trấn ), Thường Tín ( 208 000 người, 28 xã, 1 thị trấn ), và Ứng Hòa ( năm 2005 có 193 731 người, 28 xã, 1 thị trấn ). 8 thị trấn của các huyện ngọai thành Hà Nội cũ là Đông Anh, Gia Lâm, Yên Viên, Đức Giang, Sài Đồng , Cầu Diễn, Văn Điển, Sóc Sơn. Thị xã Sơn Tây trở thành thị trấn Sơn Tây và hai huyện Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm ( ? ). Còn Hà Đông thành quận nội thành. Như vậy , ngày nay Hà Nội gồm 10 quận nội thành, 18 huyện ngọai thành và 1 thị trấn riêng biệt .
Danh xưng thủ đô theo dòng thời gian
Trước thời Thăng Long
Dân gian đã cư trú ở Hà nội ít nhất là 3000 năm trước Công Nguyên- BC. Cách đây 23 thế kỷ, Cổ Loa của Hà Nội đã là kinh đô nước Âu Lạc của Thục An Dương Vương. Năm 197 trước Công Nguyên, Triệu Đà thôn tính nước Âu Lạc và từ đó trên hơn một nghìn năm, đất nước Văn Lang - Âu Lạc bị các đế chế Trung Quốc đô hộ, với những mưu đồ đồng hóa rất thâm độc. Năm 40- 43, Hai Bà Trưng khởi nghĩa, đặt kinh đô ở Mê Linh, huyện Yên Lãng, Hà Nội. Vào giữa thế kỷ thứ 5, ngay giữa trung tâm Hà Nội cũ, triều Lưu - Tống ( Liu Song ) thành lập huyện Tống Bình - Song Ping gồm hai huyện Nghi Hòai - Yi huiai ( nay là Từ Liêm ) và Tuy Ninh - Suining ( nay là Hòai Đức ) mà vùng trung tâm nay là nội thành Hà Nội. Năm 542 , Lý Bí ( Lý Bôn, Lý Nam Đế) khởi nghĩa thành lập nước Vạn Xuân độc lập 58 năm, kinh đô là Vạn Xuân, ở cửa sông Tô L+----------------------------------------------------ịch Hà Nội ngày nay. Năm 679, nhà Đường đổi vùng này thành An Nam Đô Hộ Phủ , lấy Tống Bình làm thủ phủ. Giữa thế kỷ thứ 8, hầu dẹp tan các cuộc khởi nghĩa giải phóng dân tộc ( khởi nghĩa Mai Thúc Loan năm 722, khởi nghĩa Phùng Hưng 766 - 791, họ Khúc giành quyền tự chủ 905- 930, Dương Đình Nghệ tiếp tục 931- 937 ), Phó Vương nhà Đường là Trương Ba Nghĩa ( Nghị ? )- Zhang boyi xây đắp La Thành - Luo Cheng, từ Thủ Lệ đến Quần Ngựa ( ? ) quận Ba Đình ngày nay. Giữa đầu thế kỷ thứ 9, quan cai trị Tàu xây đắp thêm La Thành, gọi tên là Kim Thành -Jin cheng . Năm 866, Cao Biền - Gao Pian cũng cố Kim Thành gọi tên là Đại La Thành - Daluo cheng, từ Quần Ngựa đến Bách Thảo, là thành cũ Hà Nội lớn nhất thời đó.
Danh xưng Cỗ Loa, Thăng Long , Đông Đô, Đông Đô , Đông Kinh
Năm 938, Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng, lập nhà Ngô ( 939- 967 ), đặt kinh đô ở Cỗ Loa , thuộc huyện Đông Anh, Hà Nội. Nhà Đinh (968- 980) lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt , đóng đô ở Hoa Lư , tỉnh Hà Nam Ninh. Thời nhà Tiền Lê ( 980 - 1000 ), kinh đô vẫn ở Hoa Lư. Năm 1010, Lý Công Uẩn , vua đầu tiên nhà Lý dời kinh đô Hoa Lư ra Đại La Thành; nhân có điềm rồng vàng bay lên mới đổi tên gọi là Thành Thăng Long - Soaring Dragon , tên thơ mộng của Hà Nội vẫn còn dùng tới ngày nay. Nhà Hồ ( 1400- 1407), đổi tên nước là Đại Ngu, đóng đô ở Thanh Hóa gọi là Tây Đô, còn Thăng Long là Đông Đô. Năm 1408, nhà Minh tấn công và chiếm đóng Việt Nam, đổi tên Đông Đô thành Đông Quan . Năm 1428 , Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh nhờ các chiến thắng Tốt Động, Chúc Động, Chi Lăng, Xương Giang ... , thiết lập nhà Hậu Lê ( trước thời Lê -Trịnh 1428 - 1527 ), đặt tên nước là Đại Việt, lấy Đông Quan làm kinh thành , nhưng tên Thăng Long vẫn thông dụng. Cuối thời Nguyễn Tây Sơn ( 1786 - 1802 ) kinh đô là Phú Xuân - Huế và Đông Đô đổi tên là Bắc Thành.
Thời nhà Nguyễn Phước ( Phúc ), Pháp Thuộc và sau Thống Nhất đất nước
Năm 1802, vua Gia Long lấy tên cũ là Thăng Long thay cho tên Bắc Thành. Năm 1831 vua Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội , gồm kinh thành Thăng Long cũ và 4 phủ . Hà Nội có nghĩa là thành phố nội địa giữa các sông hay là thành phố bên trong sông. Năm 1873, Pháp chiếm Hà Nội và năm 1887, Hà Nội trở thành thủ đô của Đông Pháp- French Indochina ( Việt -Miên- Lào ). Năm 1888, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội, xếp vào hạng thành phố cấp 1. Diện tích Hà Nội mở rộng dần; cho đến năm 1942 là 130 km2 . Từ năm 1940, quân đội Nhật chiếm đóng Hà Nội . Năm 1945, Hà Nội trở thành thủ đô của nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa, gồm 5 khu phố nội thành ( Lãng Bạc , Đống Đa , Mê Linh , Đại La và Đề Thám ) và120 xã ngọai thành. Năm 1946, Pháp tái chiếm Hà Nội . Sau 9 năm Pháp và Việt Minh đánh nhau, năm 1954 Hà Nội trở thành thủ đô miền Bắc Việt Nam. Năm 1954, Hà Nội gồm 4 quận nội thành và 4 huyện ngoại thành ( gồm 46 xã ), diện tích tự nhiên là 152 km2 . Năm 1960 , ranh giới Hà Nội được mở rộng thêm đến 586,13 km2 , gồm 4 khu phố nội thành ( Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa , Hai Bà Trưng) và 4 huyện ngoại thành ( Gia Lâm , Đông Anh, Thanh Tr , Từ Liêm ). Sau thống nhất Nam Bắc ngày 2 tháng 7 năm 1976, và trở thành thủ đô Việt Nam Thống Nhất, năm 1978 Hà Nội lại được mở rộng lần nữa, diện tích là 2123 km2, bao gồm thêm các huyện Sóc Sơn, Mê Linh, Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng và thị xã Sơn Tây . Năm 1991, Quốc Hội định ranh giới mới của Hà Nội, chỉ còn 913.8 km2, gồm 4 quận nội thành và 5 huyện ngọai thành ( Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm , Thanh Trì và Sóc Sơn). Như đã nói trên, tháng 8 năm 2008, Hà Nội nhận thêm tỉnh Hà Tây , huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 43 xã huyện Lương Sơn tỉnh Hòa Bình , diện tích là 3344 .70 km2, chia ra 28 quận - huyện và 1 thị trấn.
( Irvine, Nam Ca Li - Hoa Kỳ ngày 8 tháng 8 năm 2014 )