Cập nhật hiểu biết :
Tiến bộ khoa học trên trời, dưới biển ngày nay
G S Tôn Thất Trình
1- Khoa học tia chớp (tia sét )
Khi nói tới đám mây báo bảo sấm sét – Thunderhead, tia sét, chớp – lightning là một hiệu chỉnh cân bằng ( làm cho ngang nhau ) to lớn. Tia chớp tựu trung là một tia lửa khổng lồ làm giảm bớt các chênh lệch – phân sai điện tính đã được các hệ thống bảo – giông tố xây đắp . Nhưng đây cũng là một bí ẩn của khoa học khí quyễn. Mới đây , các nhà khoa học đã bắt đầu thám hiểm các chị em ít biết hơn của tia sét , hiện ra dưới thể những tro hình lông chim –ash plumes hay trong la bô và trên các hành tinh khác nữa . Mỗi năm ước lượng trung bình có chừng 8 triệu lòe sáng sét đánh vào Trái Đất . Đường kính một tiếng kênh – channel sét đánh chừng phân nữa một ngón Anh – inch ( bằng 1.2cm) .
a- Lạ lùng sống sót
Một tiếng sét đánh điển hình mang theo 100 triệu volts – hãy so sánh với điện thế 110 volts trung bình ở các lỗ cắm điện gia thất . Nhiệt độ của một tiếng sét đánh là 50 0000F , 5 lần nóng hơn bề mặt Mặt Trời. Tuy nhiên , hơn một trăm năm dữ liệu cho thấy là chỉ 30% các sét đánh là chết người . Một điện tính có thể chớp qua da như là dòng điện xuyên qua một điện trở , gây ra cháy bỏng da nặng nề, nhưng lại không làm hư hại đến các bộ phận nội tạng.
b- Không thấy được
Vài tia sét chớp không thể thấy được . Các tia gamma nổ bùng ở các đám mây bảo bùng – giông tố không phát xuất đi nhiệt lượng hay ánh sáng , nhưng mức phóng xạ của chúng 100 lần nhiều năng lượng hơn một tia x-ray y khoa . Các nhà khoa học bối rối vì các lóe sáng vô hình này, mãi cho đến khi các nhà khảo cứu gần đây khám phá là chúng cũng khuếch tán các điện tính không cân bằng trong các đám mây .
c- Ngọai lai
Quan sát các tia chớp ở ngòai Trái đất luôn luôn rất khó khăn . Nhưng vào lúc phân điểm mùa – equinox , năm 2009, của Sao Thổ- Saturn , những điều kiện làm giảm tính tích cực các vòng quanh Sao, sáng chói đủ cho Phi thuyền Cassini chụp bắt các lòe sáng trên hành tinh đầy hơi khí này . Sét chớp cũng đựợc dò ra ở Sao Mộc – Jupiter, và các dữ liệu rađiô gợi ý rằng nó cũng hiện diện ở Sao Thiên Vương – Uranus và Sao Hải Vương - Neptune.
d- Tia chớp hình banh
Những quả cầu tròn lạ kỳ này đã được điểm chấm trong những cơn giông tố . Cuối cùng chúng cũng bị chụp bắt trên máy chụp hình của các nhà khoa học vào năm 2012. Don Mac Gorman , nhà khảo cứu Tia sét chớp nói : “Chúng tôi không biết chúng là gì cả”. Các phân tích quang phổ gợi ý là các banh cầu tròn này hình thành, khi tia chớp đánh sét và làm bốc hơi các nguyên tố trên đất Sao .
e- Tia chớp núi lữa
Chúng có tên gọi là các đám mây báo bảo sấm sét dơ bẩn và được xem là đã xảy ra khi các hạt tử bụi bặm, từ một chùm lông tro núi lữa , đụng độ các tinh thể nước đá trong khí quyễn . Sự cố này rất khó nghiên cứu. Cho nên các nhà Khảo cứu Đức Quốc đã tạo ra một chùm lông trong la bô, sử dụng các tro núi lữa thật sự . Hạt tử càng nhỏ thì tia chớp càng nhiều , phong phú thêm lên.
2- Tìm ra nhiều loài mới ở hố biển Mariana Trench , sâu nhất thế giới
Ngày 26 tháng 3 năm 2012 , Giám đốc phim hành động truyền thuyết Hồ Ly Vọng mở cửa bước ra lhỏi tàu ngầm Deep Sea Challenger – Thách Thức Biển sâu, sau khi lặn 7 giờ đồng hồ, gần 57dặm Anh ( 1.609m x 7 = 11263 m ) ở hố Mariana Trench là điểm hố biển Thái Bình Dương ( tên Việt Nam là Biển Đông , phía Đông Trường Sa ) sâu nhất thế giới . Tàu ngầm “ Thách Thức Biển Sâu” là do cán sự người Úc Ron Allum đồng họa kiểu và chế tạo , tuy rằng Allum không có kinh nghiệm về công nghệ cơ khí , không chuyên môn về khoa học đại dương và chỉ có một mảnh bằng cán sự thương mãi . Tàu ngầm này cần có các máy chụp hình 3- D của Hồ Ly Vọng sẳn sàng , các hệ thống LED và một cần thủy động lực để thu thập các mẩu khoa học đại dương. Đây là một thách thức dưới đáy biển, tương tự leo đỉnh Everest cao nhất thế giới ở dãy núi Hy Mã Lạp Sơn. Nhắc lại là tháng giêng năm 1960, Jacques Piccard , nhà đại dương học Thụy sĩ và Trung úy Hải Quân Hoa Kỳ Don Walsh cũng đã lặn xuống hố này, từ tàu ngầm Trieste , chừng 20 phút. Nhưng sứ mệnh ngắn ngủi này đối diện nhiều trắc trở . Ở độ sâu gần 7 dặm Anh , trọng lượng đại dương lên đến gần 200 000 tấn và áp lực làm nứt cửa sổ Plexiglas của Trieste . Ngòai các khía cạnh kỷ thuật, còn phải kể ra phí tổn chế tạo. Tàu ngầm biển sâu thẳm tân tiến nhất là Shinkai 6500 , tổn phí là 60 triệu đô la Mỹ mà không lặn được quá 4 dặm Anh. Tàu Alvin của Hải quân Hoa Kỳ tốn 22 triệu đô la mà chỉ lặn được đến 2.5 dặm Anh tối đa . Năm 2005 , nhà tỉ phú bang Tennessee Hoa Kỳ, Steve Fossett cũng nhắm lặn xuống đáy Mariana Trench thuê kỷ sư đại dương học chuyên môn chế tạo tàu ngầm , nhưng sau đó Fossett rớt máy bay chết( ? )
Các nhà khoa học khắp Hoa Kỳ đã khảo sát vật liệu James Cameron đem lên từ đáy biển. Sau đâu là trình bày các khám phá đến nay, của nhà vi trùng học Doug Barlett , chánh khoa học gia của cuộc thám hiểm:
a- Các amíp – amoebas khổng lồ
Dù chúng là đơn bào – single cells, chúng không bé tí xíu , phải xem kính hiển vi mới thấy được . Chúng có thể tăng trưởng lớn cở bàn tay . Các sinh vật lạ thường này đã nhận diện được ở nhiều hố biển dưới nước sâu ở nhiều nơi khác . Nhưng hố Mariana là hố sâu nhất đáy biển.
b- Thảm vi trùng
Ở vùng giảm bớt của hố Mariana nơi một tấm kiến tạo lao xuống vỏ Trái đất , các nhà khoa học đã tìm thấy những bãi sinh vật đơn bào rộng lớn. Chúng có thể sử dụng các hợp chất hóa học rò rĩ lên từ đáy sâu thẳm . Không cần ánh sáng mặt trời, chúng có cơ nớ rộng thêm tầm hiểu biết của các nhà khoa học về yêu cầu của đời sống .
c- Gối la va – dung nham
Trước khi lặn xuống Hố Mariana , nhóm Cameron đã làm những thử nghiệm ít sâu thẳm hơn ở Hố New Britain Trench, ngòai khơi bờ biển xứ Papua New Guinea . Các nhà khoa học chờ đợi những sàn đáy biển phẳng lì đầy bùn , nhưng lại tìm ra những khối gối – pillow la va . Những hình thành này giải thích lý do hố được tạo dựng .
d- Là Dừa chăng ?
Trong số 5 tá các lòai chân 2 lọai – amphipods , một tá đã làm ra một kinh ngạc: mô của chúng chứa Scylloinositol , một hợp chất thường thấy ở dừa , không phải ở động vật . Barlett nói : “ Có thể chúng đã làm ra những phân tử này , vì các phân tử giúp chống cự lại ảnh hưởng của áp lực cao ”
( Irvine, Nam Ca Li – Hoa Kỳ, ngày 8 tháng 6 năm 2014 )
|