01/6/2014
Vị Trí
Hưng Yên là một tỉnh ĐBSH, không có đồi núi và rừng rú. Khi trời nắng , không mây che , chỉ thấy mờ mờ đằng xa những núi ở rìa tỉnh Hà Nam và tỉnh Hà Tây. Còn các dãy núi về ohía Đông Triều và tỉnh Hải Dương thì không trông thấy vì thấp và quá xa . Bắc giáp huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh , địa phận dài 16km. Tây Bắc giáp huyện Gia Lâm ( ngọai Bình Giang ( tỉnh Hải Dương ) ; đối diện với Nam Ân Thi và Phù Cừ là huyện Thanh Miện ( Hải Dương ) . Phía Tây, Hưng Yên giáp với Hà Tây, Hà Nội và Hà Nam, có sông Hồng làm ranh giới tự nhiên. Nam Hưng Yên giáp tỉnh Thái Bình , ngăn cách bởi sông Luộc . Dân số Hưng Yên tăng khá mau. Trước Cách Mạng tháng 8 năm 1945 , dân số tỉnh chỉ có 46 199 người. Năm 1954 tăng lên đến hơn 600 000 người. Năm 1989, Hưng Yên có 950 800 người. Tháng tư năm 1999, đạt 1 068 705 người. Năm 2004 là 1 120 300 người, tăng trung bình , chừng 10000 người một năm . Như vậy năm 2013 , có thể đã là 1220 000 ngườì rồi. Đa số là người Kinh , một ít tộc dân Tày, Nùng và Hoa.
Hưng Yên năm trên địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc và Tam giác Kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Tuy nhiên mãi cho đến năm 2000, các sông lớn phía Đông và Nam Hưng Yên và thiếu cầu, đặc biệt trên sông Hồng, nên giao lưu bị hạn chế. Quốc lộ 5, tư cách là một hành lang kinh tế chỉ chạy qua một phần nhỏ phía Bắc tỉnh nhà , góp dẫn đến sự phân hóa tương đối rỏ rệt giũa các huyện phía Bắc và phía Nam Hưng Yên.
Địa hình, đất đai
Địa Hình
Địa hình Hưng Yên có vẽ đơn điệu. Nhìn chung , tỉnh nghiêng chênh chếch từ Tây Bắc xuống Đông Nam và không thật bằng phẳng. Độ dốc trung bình là 8cm/km. Phía Bắc là lọai địa hình cao, hình vòng cung đi từ Đông Bắc sang Tây Bắc , rồi men theo phía Tây , dọc sông Hồng , bao gồm địa phận các huyên Văn Lâm, Văn Giang , Khóai Châu. Đây là vùng đất cao trong đê, cao độ tuyệt đối từ 4 đến 6m. Liền kề vùng đất cao là vùng đất thấp hơn, độ cao trung bình chừng 3m, phổ biến ở Ân Thi, Yên Mỹ, Mỹ Hào, Nam Kim Động, Tiên Lữ và kéo dài xuống phía Nam (như Phù Cừ ). Độ cao ở đây chỉ còn 2m, thậm chí có nơi dưới 2m . Vùng cao không giữ được nước, trong khi đó vùng thấp lại tiêu nước không kịp- không thóat thủy kịp trong mùa mưa, thường xuyên gây ra hạn hán và úng ngập. Vùng cao lại có nhiều chỗ trủng như ở Đại Hưng ( Khóai Châu ) và vùng thấp cũng có chỗ cao như ở Nhật Quang ( Phù Cừ ). Những chỗ trủng , lau sậy mọc đầy, thời Cần Vương chống Pháp gọi là Bải Sậy.
Đất đai
Tòan tỉnh Hưng Yên,không có lọai đất nào phát sinh từ đá mẹ , tất cả đều do phù sa bồi tụ. Gần hai rìa sông là đất cát , cát pha tầng dày, rồi tiếp đến là cát pha tầng mỏng hoặc đất thịt nhẹ. Đi sâu vào trong đồng là vùng đất sét có phủ một lớp đất thịt rất mỏng . Đại thể có thể chia làm hai vùng :
- Vùng ngòai đê : đây là đất phù sa trẻ nhất, hàng năm vầ được phù sa bôi đắp. Nhắc lại là sông Hồng chuyên chở nhiều lượng phù sa chứa nhiều vôi, lân, đạm, nhưng từ ngày có đập thủy điện sông Đà, lượng phù sa giảm dần, ruộng phải sử dụng nhiều phân hóa học, nhất là khi thâm canh và dùng các giống cao năng- siêu năng hơn. Căn bản tốt cho phát triễn công nghệ phân đạm tổng hợp và biến chế apatit v.v… thành phân lân dễ đồng hóa hơn . Vùng này chủ yếu ngòai đê thuộc các huyện Văn Giang , Kim Động, Tiên Lữ, trừ mùa mưa lũ trồng hoa màu xen canh, gối vụ liên tiếp.
- Vùng trong đê không được phù sa bồi đắp màu nâu tươi trung tính ít chua eutric fluvisols, không glây ( gley ), hoặc ít glây. Vùng này chiếm 32 % tổng diện tích canh tác tỉnh, tập trung nhiều nhất ở Yên Mỹ, Khóai Châu, Văn Giang, Kim Động, Văn Lâm, Tiên Lữ, Ân Thi, Mỹ Hào . Đây cũng là vùng đất trồng lúa tốt nhất Hưng Yên. Đất phù sa không được bồ , màu nâu tươi , glây trung bình , hoặc mạnh, ít chua dystric gleysols , chiếm 25% đất canh tác tỉnh, nằm ở các miền trũng các huyện Kim Động, Tiên Lữ, Ân Thi, Yên Mỹ, Văn Giang, Khóai châu , Phù Cừ, Mỹ Hào . Đất thiếu không khí, quá trình hóa sét mạnh , ảnh hưởng xấu đến cây trồng. Vùng đất chua và bí , có tầng sét dày, bao gồm các diện tích còn lại các huyện Ân Thi, Phù Cừ, Yên Mỹ, Văn Lâm … cần chống chua , chống glây hóa , cải thiện tính chất cơ học mới sử dụng hiệu quả trong nông nghiệp .
Khí hậu , thủy văn
Khí hậu
Khí hậu Hưng Yên có đầy đủ những nét chung của ĐBSH . Hưng Yên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ấm, nhiều nắng và có mùa đông mát lạnh. Nhật chiếu trung bình 1 519 giờ một năm. Số ngày nắng trung bình hàng tháng là 24 ngày. Nhiệt độ trung bình hằng năm của Hưng Yên là 23,4 0 C mùa hè, nhiệt độ cao nhất là 400C ( tháng 6 năm 1939 ) . Nhiêt độ cao mùa hè có thể làm lúa mùa đang trổ bông bị nghẹn đòng , lúa ngậm sửa cũng bị hư hỏng. , Nhiêt độ trung bình vào mùa đông là 160C. Lượng mưa trung bình là từ 1450 và 1650mm , và lượng mưa trút xuống từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm đến 70 % tổng số cả năm, dưới hình thức mưa giông nhất là vào tháng 6, tháng 7. Mưa giông chứa khá nhiều acid nitric và amôniac là lọai đạm rất tốt cho nông nghiệp. Mùa khô lạnh kéo dài từ tháng 11 đến thang 4 năm sau , có mưa phùn , giúp vụ đông có thể trở thành vụ chính , đồng thời cũng trồng được nhiều lọai cây ngắn ngày. Ẩm độ khí trời trung bình là 86 % ,cao nhất là 92% và thấp nhất là 79 %.
Thủy văn
Như đã biết , Hưng Yên có 3 mặt sông bao bọc , sông lớn nhất miền Bắc là sông Hồng chảy qua tỉnh. Ngòai các sông tự nhiên, Hưng Yên còn có nhiều sông đào, khởi sự từ đời nhà Lý, thuộc hệ thống đại thủy nông Bắc Hưng Hải để phục vụ yêu cầu sản xuất nông nghiệp. Ba sông nên kể ra là :
- sông Hồng, chảy qua Hưng Yên theo hướng Tây Tây Bắc - Nam Đông Nam, chiều dài 67 km. Đây là đọan sông lớn nhất tỉnh. Sông Hồng chứa lượng phù sa khá lớn và chính vùng Hưng Yên do dòng sông này bồi tụ nên. Đến lảnh thổ Hưng Yên, sông Hồng chảy quang co uốn khúc tạo nên những bải bồi rất rộng như ở Phù Cường, Hưng Cường thuộc huyện Kim Động. Sông Hồng làm thành ranh giới tự nhiên giữa HưngYên với Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam. Bắt đầu vào địa phận Hưng Yên ở thôn Phi Liệt, xã Liên Nghĩa huyện Văn Giang .qua các huyện Văn Giang, Khóai Châu, Kim Động, thị xã Hưng Yên và một phần Tiên Lữ! ,rồi ra khỏi địa phận Hưng Yên, từ Ung Lôi, xã Tân Hưng , huyện Tiên Lữ. Ngòai phù sa cho đồng ruộng Hưng Yên, sông Hồng là đường thủy quan trọng nối Hưng Yên với Hà Nội , thị xã Sơn Tây, Việt Trì, Yên Bái,Thái Bình và Nam Định.
- Sông Luộc là một nhánh lớn của sông Hồng, nằm vắt ngang phía Nam tỉnh nhà, gần như vuông góc với sông Hồng. Dài 70km, rộng trung bình 200m dài 26km ở địa phận Hưng Yên. Có thể theo sông Luộc đi từ Hưng Yên đến Ninh Giang ( Hải Dương ) và từ sông Luộc qua hệ thống sông khác đến thành phố Hải Dương, thành phố Hải Phòng.
- Sông Kẻ Sặt, chảy phía đông tỉnh làm ra ranh giới tự nhiên giữa Hưng Yên và Hải Dương . Dài 20km từ Thịnh Vạn ( Mỹ Hào ) đến Tông Hóa ( Phù Cừ ), giá trị về mặt dẫn nước khi có hạn và tiêu nước -thóat thủy khi có úng rất lớn , nhận nước từ sông Thái Bình, phía Nam thị xã Hải Dương và thóat thủy, tiêu nước ra sông Luộc.
Hưng Yên còn có các con sông ngang dọc nối nhau thành một màng lưới dẫn thủy từ Bắc đế Nam như các sông Hoan Ái, Cửu Yên, Nghĩa Trụ v.v... Và cũng có nguồn nước ngầm phong phú, trữ lượng có thể đến hàng triệu m3, nhất là ở khu vực quốc lộ 5, từ Như Quỳnh đến Phố Nối, tiện cho phát triễn công nghệ và đô thị.
Tài nguyên sinh vật, khóang sản
Sinh Vật
Nằm giữa ĐBSH , lại được khai thác từ lâu đời nên Hưng Yên hầu như không còn thảm thực vật và động vật tự nhiên nữa. Các lòai chim muông, cầm thú tự nhiên rất ít, ngòai những lòai cáo, cò, cuốc, ngỗng trời v.v…
Khóang sản
Tài nguyên khóang sản cũng rất hạn chế. Ngay cả nguyên liệu thông thường như đá vôi cũng phải nhập từ tỉnh ngòai. Đây là một trong những khó khăn quá trình phát triễn công nghiệp hóa tỉnh . Hưng Yên có nhiều than nâu - brown coal , thuộc hệ thống than đá lưu vực ĐBSH , trữ lượng là 30 tỉ tấn, nhưng chưa bao giờ được khai thác cả.
( còn tiếp)