.
  Phát triển Hưng Yên P3
 
5/6/2014


Phần II hát triễn Hưng Yên

 

    Tỉnh Hưng Yên mới được tái lập năm 1997, nghĩa là chưa đến 20 năm nay .  Đây là một tỉnh nông nghiệp từ đời nhà Lý , có vị trí gần các trung tâm  công nghiệp, nhất là gần Hà Nội và các khu công nghiệp  dọc theo  quốc lộ 5. Nhờ đó  Hưng Yên có thể phát triễn hàng hóa thực phẩm  tươi sống  và chế biến  phục vụ các thành phố . Năm 1998,  tuy nông nghiệp đã giảm tỉ trong so với năm 1995, từ 61,7 % GDP  xuống 50.1 % năm 1998, tỉ trọng khu vực công nghiệp  tuy tăng lên từ 11.8 %, nhưng cũng còn thấp bé 23.2 % và khu vực dịch vụ  hầu như không thay đổi, năm 1998 là 26.7 %.

 

     Nông nghiệp

 

     Đất nông nghiệp chiếm 61 037 ha , 91 % số này  nghĩa là 55 645 ha có thể khai thác suốt năm.  Phần  còn lại  là để trồng cây lâu năm - đa niên, nuôi cá  hay chăn nuôi …  Lúa là cây lượng thực trọng yếu  Hưng Yên, về diện tích  lẫn sản lượng . Diện tích  trồng lúa không thay đổi,  năm 1995 là 89 400 ha và năm 1999 là 89 600 ha . Trồng 2 vụ mỗi năm  và diện tích lúa Đông Xuân( 1995 là 42.200 ha và 1999 là 42 700 ha) cũng như lúa Mùa ( 1995 là 47200 ha, 1999 là 46 900 ha) hầu như không thay đổi.  Nhưng năng xuất  lúa cả năm đã gia tăng từ 4.42 t /ha năm 1995  lên đến 5.5 t/ha  năm 1999, nhờ áp dụng  đồng bộ các biện pháp thâm canh, dùng giống cao năng - siêu năng hơn, cải thiện kỷ thuật canh tác,  thủy nông ( lợi ), phan bón hóa học ...  Sản lượng lúa cả năm, năm 1999 là 493 100 tấn lúa,  tăng thêm gần 100 000 tấn  so với năm 1995 . Sau năm 2000, Hưng Yên  tiến hành việc đầu tư cải tạo diện tích đất chua và đất trũng nội đồng thuộc các huyện Ân Thi, Khóai Châu,Yên Mỹ … thành đất nông nghiệp để  bù vào diện tích đất trồng lúa hao hụt  vì phát triễn công nghệ và đô thị.  Mục tiêu  đảm bảo  sản lượng lương thực,  lúa là chủ yếu,  đạt 800- 900 000 tấn năm 2010 . Bắp ( ngô)  đứng hàng thứ hai sau cây lúa, nhưng diện tích  năm 1998 còn dưới 10000 ha , và năng xuất còn có thể tăng nhiều hơn, vì năm 1999 năng xuất bắp ở Hưng Yên còn thấp kém,  4.4 tấn /ha  chưa bằng phân nữa năng xuất bắp lai kép hay đơn hiện hửu . Các nơi cao ráo,  đất cát pha  thuận lợi trồng bắp ( ngô ) là ở các huyện Tiên Lữ, Kim Động, Yên Mỹ .    

        Các hoa màu  khác của Hưng Yên có thể kể ra là lạc - đậu phụng  năm 1999 còn trồng đến 3200ha, sản lượng 5700 ha ; đậu- đổ tương - đậu nành diện tích năm 1999 lên đến 4200 ha , sản lượng đạt  6600 tấn . Cần chuyễn hướng  thay cây đay- jute , cây gai - ramie,  dâu nuôi tằm kéo tơ , mía làm đường ăn, thầu dầu - ricin   … qua những cây có thị trường, không bị  công nghệ cạnh tranh,  có lợi cho nông dân hơn. Tỉ như  cây chuối cũ , cũ chuối tây, đồng riềng, Arrow root du Queensland - Canna edulis Ker , Pháp  nhập vào từ Peru- Nam Mỹ Châu năm 1896.  Năm 1993, Việt Nam đã trồng được  trên 30 000 ha, đa số ở Hưng Yên và Đồng Nai, trong số  300 000 ha trồng trên thế giới ( đặc biệt là ở Phi Châu ).  Công dụng lớn ngày nay của Canna , chuối tây lấy củ là chế biến  làm Miến - Bún Tàu.

    Về cây ăn trái ( ăn quả ),  cây chủ lực Hưng Yên là nhãn và một số lòai cây phụ nhiệt đới hay ôn đới như vải, táo,  chuối . Nhãn lồng Phố Hiến nổi tiếng từ xưa, là một lọai trái cây đặc biệt  cho vua dùng, nhưng nay đã bị nhãn miền Nam cạnh tranh . Nhắc lại là cảng sông Phố Hiến nay chỉ còn chiếm  5 km2 , trải dài từ thôn  Đăng Châu  phường Lam Sơn đến Nê Châu phường Hồng Châu, thị xã tỉnh lỵ Hưng  Yên. Phố Hiến cách  Hà nội  ở phía Đông Nam  khỏang  70 Km . Từ thế kỷ thứ  15 đến thế kỷ thứ 18  là một cảng sông buôn bán thịnh vượng xứ Đàng Ngòai, giữa  Nhật Bổn, Trung Hoa và  Việt Nam;   như cảng biển Hội An  xứ Đàng Trong vậy đó . Đáng tiếc là ngoài chuối và vải thiều ( sản xuất chánh là ở Lục Ngạn, không phảiở Hưng Yên ), đồng bằng Hưng Yên không đủ cao ( trên 700m )  để trồng các cây ăn trái rụng lá xứ mát lạnh như Mận Nhật- Plum  Prunus Salicina: Mận Tam Hoa,  Mận Hậu , Mận Đường trái nhỏ  20 -20mm  khó giữ lậu , chỉ  bán  được thị trường nội địa và từ năm 1996   các giống mận tây mới  như Blackamber, Friar , Simka và Fortune,  tháp trên  gốc   Myrobalan. Mơ Nhật. japanese apricot  Prunus mume , trồng nhiều ở Tây Bắc, các giống tốt là  Mơ Vàng Bạch Thông ( yellow apricot ), Mơ Vàng  Mộc Châu ( lọai  vàng)  và Mơ Má Đào  ( pink apricot ).  Đào Mèo - Hmong peach là lòai đào   Prunus persica ,  trái cũng to lớn như các trái  đào Âu Châu, nhưng dân gian chỉ trồng các giống đào trái nhỏ, mùa thu họach rất ngắn  như Đào Sapa , Đào Mẩu Sơn. Năm 1991, FAO  du nhập trồng khá tốt giống đào DA2 , nguồn gốc Bulgaria.  Lê Táo và Lê Đường, Asian pear , nguồn gốc lòai Pyrus pyrifolia , thường do tộc dân Mèo  du nhập từ Trung Quốc  thập niên 1960.  Giống Lê Kieffer pear,    một giống lai Pyrus Communis x Pyrus pyrifolia,  Mieville du nhập năm 1921  là một giống khá tốt  ít yêu cầu lạnh - low chilling requirement  và kháng khá tốt bệnh cháy lá Erwinia  amylavora ,  có thể ăn trái tươi hay dùng nấu chín cùng thịt bò như món ăn ngon Cao Ly.  Táo Malus doumeri chỉ trồng ở cao độ trên 1400m, thường được gọi là Táo Mèo, cây cao , kháng được nhiều bệnh cây, nhưng trái nhỏ  và phẩm chất kém hơn Malus domestica.  Các giống mới như Fuji  và Granny Smith  mọc khá tốt nếu được tháp trên gốc M9 . Viêt Nam hiện còn phải nhập nhiều lọai táo từ Trung Quốc, Hoa Kỳ , Tân Tây Lan và Âu Châu. Hồng trái - persimmon Diospyros kaki  truyền thống trồng khá nhiều ở cao độ trên 700 m.  Các giống miền Bắc là Hồng Thạch Thất , Hồng Sơn Dương, Hồng Lý Nhân, Hồng Lục Yên, Hồng Bảo Lâm Hồng Quảng Bá . Nay Lâm Đồng cũng trồng khá nhiều các giống hồng trái kaki.

    Diện tích trồng cây ăn trái  ở 11 tỉnh miền núi Bắc Việt các năm 1995 là 32 443 ha , năm 2010 đã trên 100 000 ha :

           Tỉnh                             1995 ( ha )                       2010 ( ha )

       Hà Giang                         3503                                10 000

       Tuyên Quang                  1070                                 7 000

       Cao Bằng                         720                                   6000

        Lạng Sơn                         3290                               10 000

        Lai Châu                           560                                  8000

        Lào Cai                             2690                                6000

        Yên Bái                             720                                   7000

        Bắc Thái                            10780                              10 000

        Sơn La                               5557                                12 000

        Hòa Bình                            833                                   10 000

        Quảng Ninh                        ...                                       14 000

         Tổng cọng                        32 443                               100 000

          (  Chiếu theo  Philippe Cao Vân CIRAD- FlHOR và Nguyễn Minh Châu SFRI,  2014 )

 

Về chăn nuôi, không rỏ đã đạt dự trù là 1 triệu con heo - lợn vào năm  2010  chưa và chương trình Sind hóa  đàn bò  để thêm sửa và thịt  đi đến đâu rồi ?   phải nói đến  phong trào nuôi gia cầm phát triễn rộng rải ở  tỉnh nhà .  Gà Hưng Yên đã nổi tiếng khắp nước với các giống gà Đông Cảo - Khóai Châu , gà Từ Hồ Văn Giang.  Gà trống trung bình nặng  5- 7 kg  và gà mái 3 kg. Ở Ân Thi, Phù Cừ còn nuôi nhiều gà tây - gà lôi, gà Nhật bản….  Đàn gia cầm  tỉnh năm 1995  là 2. 6 triệu con, năm 1999  đã trên 4.2 triệu con.  

  

           Đường bộ, đường sông

    

     Như đã  nói trên thiếu cầu đã ngăn trở giao thông , phát triễn xã hội kinh tế,  du lịch , công nghệ ,  tuy rằng Hưng Yên đã có các quốc lộ  số 5 và số1 ngang qua nối với các phi trường Nội Bài , phi trường Cát Bi các cảng biển Đông Cái Lân , Hải Phòng. Nay đã có các cầu  Thanh Trì , Yên Lệnh ,  Triều Dương  giúp cải thiện các mối nối với các tỉnh khác. Quốc lộ 39 từ Phố Nối đi Triều Dương  dài 44 km nay đã có cầu bắc qua sông Luộc để thông với tỉnh Thái Bình .  Cầu Yên Lệnh thay bến phà  (? )giúp hình thành tuyến đường rẽ ngắn nhất qua địa bàn tỉnh Hưng Yên nối quốc lộ 1 với quốc lộ 5 ra cửa biển Hải Phòng  và cảng Cái Lân , ngòai  tạo giao lưu kinh tế  giữa Hưng Yên và các tỉnh , đồng thời giải tỏa  mật độ  giao thông quá cao của thủ đô Hà Nội.   Các tuyến giao thông nội tỉnh  như đường 38 từ Trương Xá ( Kim Động ) đi Sa Lung ( Ân Thi )  dài 15 km , đường 200 từ Hải Yến ( Tiên Lữ )  đi Cống Trắng  qua huyện lị Ân Thi  dài 24km , đường 99  từ Cống Tranh đi Thiết Trụ  qua Lực Điền , Từ Hồ dài 18 km hình như đã được nâng cấp. Theo tỉnh,  Các năm 2010 - 2015 sẽ hòan tất nâng cấp quốc lộ  38,  tỉnh lộ 200  theo tiêu chuẩn mức 3  ở  vùng ĐBSH.   Tỉnh  cũng phối hợp mọi cơ quan liên hệ, gia tốc xây cất đường trên đê Sông Hồng, đường nối  xa lộ cao tốc  giữa Hà Nội - Hải Phòng    nhất là khúc đọan từ cầu Gié - Ninh Bình  là xương sống huyết lộ Nam Bắc   và thiết lập các nối kết  của vòng đai Hà nội , các xa lộ ngọai quốc  qua các tỉnh lân cận,   xây dựng các cảng sông Hồng và sông Luộc , cố gắng đào , vét kênh  đê  các tàu có trọng tải 50 tấn  giao thông an tòan. Sông Luộc và sông Hồng  là những đường sông chánh của Hưng Yên.  Từ thị xã Hưng Yên tàu thuyền  có thể ngược sông Hồng lên Hà Nội , Sơn Tây, Việt Trì, Yên Bái, Lào Cai, hoặc  xuôi Thái Bình rồi ra biển. Trên sông Luộc , tàu thuyền có thể  đi Ninh Giang ( Hải Dương ), Phả Lại, Hải Phòng. Phía Bắc Hưng Yên có đường xe lữa  Hà Nội - Hải Phòng chạy qua . Nhưng tác dụng của đường này  đối với Hưng Yên không nhiều vì chỉ chạy qua địa bàn huyện Văn Lâm  trên một đọan dài chưa đến 22 km .  

    Như đã nói trên  du lịch- dịch vụ Hưng Yên con nhỏ bé  vì cơ sỏ hạ tầng, kỷ thuật phục vụ du lịch yếu kém.   Ngay cả  cụm di tích nổi tiếng  Phố Hiến ( thị xã Hưng Yên -  Đa Hòa - Dạ Trạch ( Khóai châu ) cũng không mấy mở mang , các lễ hội truyền thống  mang nhiều dấu ấn lịch sử  ít tổ chức hội hè, từ truyền thuyết Tiên Dung - Chử Đồng Tử cho đến những địa danh ghi lại các trang sử huy hoàng của dân tộc như cổ thành Hưng Yên, các vùng kháng Pháp thựcdân xâm lăng của phong trào Cần Vương -  Bải Sậy …   Tuyến đường sông   từ Hà Nội  danh vang “ Kẻ Chợ”  ( thứ nhất Kinh Kỳ)  theo  sông Hồng  đến thị xã Hưng Yên chứa đựng cảng Phố Hiến ( thứ nhì Phố Hiến theo ca dao) xưa cũ  cần phát triễn thương mãi , buôn bán  hội họp ca kịch ( hát bội , hát chèo , hát ả đào , trống quân, hát cải lương kiểu Kim Chung miền Bắc trước  khi gánh hát Bắc này vào Nam 1954 -55 )  ít nhất cũng phải không thua kém khúc  đọan Tiền Giang- Mỹ Tho - Cái Bè ,  từ Sài Gòn đến Cần Thơ  ngày nay . Tuy rằng  từ năm 2000 đã có tuyến ca nô du lịch tham quan từ Hà Nội đến đền thờ Chử Đồng Tử  và ba trung tâm thương mãi: thị xã Hưng Yên , Thị trấn Phố Nối ( huyện Mỹ Hào ) và thị trấn Như Quỳnh( huyện Văn Lâm ).

 

 


 
 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 693402 visitors (2230824 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free