.
  Phát triễn Bình Thuận P2
 
24/4/2014


Phần II : Phát triễn Bình Thuận

GS Tôn thất Trình

 

Năm 2007 , GDP mỗi đầu người  Bình Thuận là 11 triệu đồng ĐVN , đứng hàng thứ 3, sau  Đà Nẳng và  Khánh Hòa -  Nha Trang.  Trên mức trung bình  các tỉnh của vùng  ước lượng năm đó là 10.8 triệu ĐVN. Kinh tế Bình Thuận  phát triễn mau lẹ nhất các tỉnh Duyên Hải Nam Trung Bộ  , trung bình hàng năm là gần 14 % ở thời gian 2000- 2007. Mức tăng trưởng Nông Lâm Ngư  trung bình 7.4 % , công nghệ xây cất là 21.6 % và dịch vụ 15. 4%. Tuy nhiên năm 2008 , phát triễn Bình Thuận  cũng như cả nước  chậm lại vì khủng hỏang kinh tế thế giới, nhưng sau đó  còn gặp nhiều trở ngại  trong công cuộc phục hồi, không biết đã hòan tòan khắc phục chưa:  như kiện tụng  về vụ lập các khu công nghệ , biến đổi các sân gôn thành công viên du lịch( chẳng hạn  sân gôn  18 lỗ do nhà tỉ phú Larry Hiblom  nhóm Tòan cầu DHL  thiết lập năm 1993   rộng 62 ha và  nâng cấp  một khách sạn quốc doanh thành một nơi nghỉ mát 4 sao Novotel nhưng khi  nhà tỉ phú  chết tai nạn máy bay  thì bán lại cho  nhiều nhà chung sức ngọai quốc khác , trước khi nhóm Rạng Đông mua lại  theo gía 20 triệu đô la tháng 11 năm 2013,  bỏ ra khỏang  3 ngàn tỉ ĐVN – 142. 8 tỉ đô la Mỹ  xây cất một thị trấn  đa phương  có nhiều nhà lầu cao tầng, dinh thự,  gia cư vưòn tượt …  đến nay dự án đổi thay  vẫn chưa được  phủ thủ tướng chánh phủ chấp thuận ? ), thiếp lập công nghệ chế biến aluminium  các quặng  khai thác ở Tây Nguyên,  tranh tụng với hảng Mỹ  khai thác titan( năm 2011,  hảng luật Dardenne & Boyd kiện chánh phủ VN  vi phạm thỏa hiệp  song phương Hoa Kỳ - Việt Nam   cấp môn bài bất hợp pháp  cho một hảng  khai thác titanium,  trên đất  các Cồn Cát Trắng White Sand Dunes công ty  South Fork đã cho thuê- leased ? ) , các  thương hiệu  “ nước mắm Phú Quốc” ( thường bị Thái Lan , Trung Quốc mượn danh ), thương hiệu “ thanh long ? xuất khẩu sang Nhật, các vấn đề môi trường khi công nghệ hóa, đô thị hóa v.v…

Xây dựng hạ tầng cơ sở cho phát triễn

Điện

      Đáng kể ra trước tiên là dự án thủy điện Hàm Thuận Đa Mi,  trên thung lũng sông La Ngà, một nhánh lớn của sông Đồng Nai,  và thuộc huyện Hàm Thuận Bắc ( Ma Lâm ), tỉnh Bình  Thuận   . Tưởng cũng nên biết là  hảng Nippon Koei , sau đập Da Nhim và đập Ya Li , năm 1973- 74 trong khuôn khổ  thủy nông – thủy  lợi Bộ Nông Nghiệp miền Nam, đã phát hoạ  sơ đồ chín  đập trên Sông Đồng Nai ( và phụ lưu ) theo thác đổ  - en cascade, nuớc đập trên dùng chạy nhà máy đập dưới.  Hệ thống Hàm Thuận-Đa Mi là thành phần hệ thống Đồng Nai này.  Hồ trữ  đập thủy điện Hàm Thuận nằm trên hai tỉnh Lâm Đồng và Bình Thuận,  có diện tích mức nước mặt trung bình là 25.2km2 (  2520 ha ).  Và hồ  nước   đập Hàm Thuận trữ tích  cực  chừng 523 triệu  mét khối – cubic meters hay  424 000 mẩu bộ Anh vuông- acre feet ).  Hồ trữ Đa Mi  hàng ngày được điều hòa ở phía dưới nhà máy Hàm Thuận.  Hai nhà máy cách nhau 10km  và cách TP Sài Gòn- Hồ Chí MinhVille khoảng 200 km. Nhà máy Hàm Thuận  có 2 đơn  vị, công xuất là 300 000 kw, khởi công xây  dựng năm 1997 và họat động năm 2001.  Nhà máy Đa Mi  gồm 2  đơn vị , công  xuất 175 000 kw. Cả hai đều trang bị kỷ thuật tân tiến, dù rằng cũng là lọai qui ước,  nguồn gốc Nhật, Hoa Kỳ, Canada, Ý  v.v.… Chi phí  dự án là 70 145 triệu Đồng Yen ( Nhật ), trong đó là 19 623 triệu vay  Ngân Hàng  Hợp tác Quốc tế của Nhật.   Sau đây là đặc điểm chánh của Hàm Thuận :

Hồ trữ

Mực  nước trung bình               + 605 ( trên mực nước biển – MSL )

       Mức nước tù- dead water         + 575 MSL

       Tổng dung tích trữ                        695 triệu m 3

       Dung tích trữ thật sự                    523 triệu m3

Đập ( 1 đập chánh và 4  đập phụ )

Đập chánh

Lọai :đắp đầy đá – rockfill, lõi  trung tâm không thấm nước

         Chiều cao                                       93.5 m

          Bề cao đỉnh                                   +609 .5 MSL

           Bề dài đỉnh                                     686 m

Đặc  điểm chánh của Đa Mi là   lọai đập đắp đầy đá -rockfill  trên sông Đa Mi,  cao 72m ( 236 bộ Anh )  làm ra hồ Đa Mi,  tổng dung tích là 141 triệu m3 (  114 000  mẩu- bộ Anh ), nhà máy điện  lọai qui ước công xuất thiết kế là 175 000 kw .

     Ngòai ra Bình Thuận còn đang xây  cất thêm nhiều nhà máy thủy điện khác tỉ mhư nhà máy  33 000 kw  ở huyện Bắc Bình ( Chợ Lâu ) trên Sông Mao ?  Tổng cọng   công xuất các dự án mới là  189 000 kw .  

    Tháng tư năm  2009 ,   bắt đầu giải tỏa đất đai và làm sạch  663 ha   Trung tâm  Điện ở   xã Vĩnh Tân ,  huyện Tuy Phong ( Liên Hương ) xây dựng 3   nhà máy nhiệt điện- thermal power , tổng công xuất là  4 400 000 kw . Tháng 8 2010 , trung tâm khởi công  xây cất nhà máy nhiệt điện   Vĩnh Tân 2 ,  có 2 tua bin tổng công xuất là 1 244 000 Kw , hy vọng  sẽ họat động năm nay 2014 .  Công ty Điện Lực Việt Nam – EVN   dự trù đầu tư làm đường dẫn điện cao thế 500kv từ Vĩnh Tân đến Sông Mây phía Đông Nam tỉnh Đồng Nai.  Tháng 5 năm 2010 , bộ Công nghệ và Thương mãi  chấp thuận   dự án nhà máy  điện Sơn Mỹ  ở công viên công nghệ Sơn Mỹ, huyện Hàm Tân ,  có hai dự tính :  nếu dùng khí dầu thiên nhiên lỏng – LNG   thì dự án  sẽ có  4 nhà máy phát điện, tổng công xuất  là 3000 000 Kw , rộng 349 ha.  Nếu dùng than đá nhập khẩu  thì sẽ có  3 nhà máy phát điện  tổng công xuất là 3 600 000 Kw , chiếm diện tích 363  ha . 

     Bình Thuận còn có   tiềm năng  điện gió - wind  power thổi trên diện tích  75 000 ha , công xuất tiềm năng tổng cọng là  5 030 000 Kw . Tỉnh nhà  đặt mục tieêu   sản xuất 1500 000 Kw  vào năm 2015 và 3000 000 Kw  vào năm 2020    Hảng JS   ViêtNam  Renewable Energy,  năm 2009 ,   đả khởi sự  xây cất  nhà máy điện gió 120 000 kw  ở huyện Tuy Phong   trong giai đọan đầu  nhà máy này  đã hòan tất 5 tua bin chạy gió  201 500 Kw.  Điện gió nhà máy đã nối kết vào  mạng lưới điện quốc gia và là nhà máy điện gió lần đầu tiên làm như vậy ở nước nhà .

 Giao thông , chuyên chở

Hải cảng

Bình Thuận là một tỉnh kinh tế biển nổi tiếng phát triễn từ lâu đời , ngư trường rộng  đến 52 000 km2, dự trử hải sản  năm 2012 lên đến 220 – 240 000 tấn . Năm 2012, số  ngư tàu đánh bắt trên 8034 , luôn luôn cải tiến, nuôi sống  651 166 người, nghĩa là gần đến phân nữa tổng dân số tỉnh.   Thế cho nên không có gì đáng ngạc nhiên khi tỉnh nhà cố gắng phát triễn tiễn các  cảng biển và  các thị trấn biển. Tuy nhiên hiện nay   Bình Thuận vẫn chưa   có một hải cảng lớn. Tỉnh chỉ có những hải cảng   đặc thù như  Vĩnh Tân và  Kê Gà.  Trong qui họach  Hệ thống phát triễn Hải cảng  Việt Nam  cho đến năm 2020     viễn cảnh đến 2030,  các cảng Vĩnh Tân  phía Bắc tỉnh( gần Cà Ná – Phan Rang ) và  Kê Gà phía Nam tỉnh ( không xa mấy suối nước nóng Bình Châu,  tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ) sẽ được mạnh dạn đầu tư,   mở  rộng thêm cơ hội   phảt triễn kinh tế biển tỉnh nhà. Hải cảng  Vĩnh Tân,  như đã nói trên sẽ   là cảng chuyên môn  sản xuất điện,  với  trọng tải  hang hóa  mỗi năm là  6- 7 triệu tấn , tăng đến  18- 25 triệu tấn  năm  2020.  Kê Gà  là hải cảng chuyên môn lọai II  gồm  3  ga cuối - terminals;  Ga Cuối  Bắc sẽ là  một xưởng  aluminium,  trọng tải  5-6 triệu tấn  năm 2015 , dự trù tăng đến  12-15 triệu tấn  năm 2020 ;   Ga Kê Gà Nam  trọng tải  năm 2015 là 1.5 -  2 triệu tấn  và 3.5 – 4 triệu tấn  mỗi năm  vào năm 2020 ;  Cảng Phú Qúy , một  cảng vệ  tinh, sẽ có trọng tải 0.15 – 0.2 0 triệu tấn năm 2015 và 0.3- 0.5 triệu tấn năm 2020                                                                                                                       

 

Phi trường Mũi Né , giữa trung tâm tỉnh nhà ?

Hiện nay Bình Thuận chưa có phi trường dân sự - thương mãi.Phi trường dân sự gần tỉnh nhất là Liên Khương gần Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Theo báo Tuổi Trẻ, tháng 5 năm 2013 chức quyền Bình Thuận  và hai bộ Quốc Phòng và  Chuyễn Vận   giải tỏa một nghiên cứu  thiết lập một phi trường ở xã Thiện Nghiệp,  gần bải biển  Mũi Né, sử dụng vừa cho dân sự, vừa  cho quân sự . Phi trường mới không nằm  vào vị trí của  phi trường quân sự  tại   Tiến Thành , thị xã Phan Thiết, vì theo  chủ tịch Hội Đồng nhân dân tỉnh , nới rộng phi trường quân sự hiện hửu sẽ gây ra nhiều khó khăn môi sinh cho thị xã.  Phi trường  mới sẽ  chiếm 500 ha  đất đai tỉnh đã qui họach sử dụng cho đến năm 2020. Tổn phí  trên 5.6 ngàn tỉ ĐVN ( 265 triệu đô la Mỹ  )   và sẽ không ảnh hưởng tới đầu tư   của phi trường quốc tế  Long Thành ở phía Nam tỉnh Đồng Nai ,  vì tư bản dùng cho hai phi trường không cùng một nguồn gốc.  Phi trường Mũi Né dự trù cho  các máy bay nhỏ kiểu Fokker 70’s  và ATR72 , và cũng có một nơi dành cho các trực thăng lên xuống nữa, sẽ  cung cấp dịch vụ  cho 500 000 lượt hành khách một năm, sẽ  tăng đến  1 triệu hành khách năm 2030 và sẽ đủ trang bị - tiện nghi cho  các máy bay cở trung bình như A320s, A321s, và B319s . Phi trường dụ liệu sẽ  khaitrương  năm 2017 .  Dự án đã đệ trình Chánh phủ Trung Ương xin chấp thuận .

Đường bộ và  đường  xe lữa

Quốc lộ 1A   chạy ngang qua tỉnh, nối 6 huyện trong số 10 huyện  của tỉnh với  phần còn lại đất nước. Hai quốc lộ khác: quốc lộ 28  từ thị xã Phan Thiết  đển  Gia Bắc - Di Linh thuộc tỉnh Lâm Đồng     Gia Nghĩa,  Dak Mil  …tỉnh Đắc Nông     quốc lộ 55 từ giữa đường  quốc lộ 1A  đọan  Phan Thiết, Hàm Thuận Nam-  Xuân Lộc , Gia Rai( tỉnh Đồng Nai )     rẽ xuống  phía Nam  đến Hàm Tân, La Gi  đi Xuyên Mộc( tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hay ngược Bắc ( ? ) đi Suối Kiết , Tánh Linh , nối với quốc lộ 20  đi   Đa Hòai (   (Ma Dang Gui) lên Bảo Lộc  ( lâm Đồng ). Ga Mường Mán là ga lớn nhất ở Bình Thuận của  đường xe lữa Nam Bắc, nhưng Bình Thuận còn 4 – 5  ga nhỏ hơn  là ga Phan Thiết, ga  Sông Mao (? ) , ga Hàm Thuận Bắc, ga Sông Phan và ga sông  Dinh (  ?) . 

Phát triễn du lịch  Bình Thuận

    Bình Thuận là một tỉnh duyên hải,  khí hậu ấm áp,  nắng chan hòa quanh năm, nhiều bải biển  sạch và đẹp,  nhiều cảnh quan thiên nhiên mộng mơ, đường đi đến thuận tiện;  cho nên  phát triễn du lịch là lẽ đương nhiên. Tỉ như du lịch thể thao,  du lịch nghĩ mát biển,  đua thuyền, câu cá, đánh gôn, dưỡng bệnh v.v.  Ngòai ra,  Bình Thuận còn là nơi du lịch nhân văn  lịch sử , văn hóa, cùng nhiều hút dẫn  như Chùa ( Trường ? ) Dục Thanh ( giữa ga Mường Mán – Phan Thiết ), dinh thự kiệt tác Thim , Mũi Diên, ga Cà Nong, núi Tà Cú  ( bên cạnh Hàm Thuận Nam),   các hồ Hàm Thuận – Đa Mi, tháp chàm  Po Sah Inu  ( giữa  đường Phan Thiết - Mũi Né ), chùa Hang  v.v…

   Năm 2001, theo thống kê , Bình Thuận chỉ mới có 8 doanh nhiệp  du lịch , 1 quốc doanh và 7 tư doanh, nuôi sống chừng  13 000 người. Cuối năm 2007,  đã có  131 cơ sở cư trú  chứa trên 4 575 phòng ,  trong số  này  3157 phòng  từ 1 đến 4 sao , 8 khách sạn 4 sao  chứa 749 phòng và 10 khách sạn 3 sao  chứa 675 phòng.  Năm 2007,   Bình Thuận đã đón mời  1 .8 triệu du khách,  10 % là ngọai quốc.  Tuy rằng lúc đó, còn thiếu  cảng biển và  phi trương dân sự,  đáng kể ra  là du khách Nga  đến tham quan Bình Thuận đã tăng thêm nhiều từ năm 2006.   Từ năm 2012 , 20      hảng  họat động du lịch Nga đã  đến Phan Thiết.  Từ  đầu năm  2013 đến  gần cuối tháng 9  năm 2014,  đã có 190 000 du khách  Nga đến Việt Nam .  Năm 2013 ,  35% du khách đến Bình Thuận là người Nga  và họ ở lâu hơn  7 ngày , có phần lâu hơn các  du khách nước khác.   Mùa nghĩ cho du khách Nga  là từ  tháng 9 đến đầu tháng 3,  lúc mùa đông Âu Châu lạnh lẽo  khắc nghiệt và  nắng ấm áp  ở Mũi Né. Đặc biệt  khu nghĩ mát cao sang, xa xĩ  Phan Thiết- Mũi Né,  rất phổ thông, thích thú cho  dân Nga.

    Lợi tức ngành du lịch    1 060  tỉ ĐVN, cao hơn dự tính  6 %, tăng 32 % so với năm 2006.  Cuối năm 2012 ,  Bình Thuận lợi dụng ưu điểm vị trí  khai thác biển Duyên hải miền Trung  phát triễn thêm Du lịch Biển phối hợp với thể thao,  thám hiểm các đảo và du lịch  “ tinh thần” ( ít khi nói đến là  chủ tịch  miền Bắc Hồ Chí Minh có lúc dạy học ở thị xã Phan Thiết và tổng thống Đệ nhất Cọng Hòa Miền Nam Ngô Đình Diệm, trước khi về làm Thượng thư  Bộ Lại  triều đình Huế ( tương đương thủ tuớng ), đã làm tuần vũ Bình Thuận- Phan Thiết ).  Phối hợp du lịch  với tham quan các  thắng cảnh thị  xã tỉnh lỵ  Phan Thiết – Phú Quý , Chùa Cổ Thạch – Cù lao Cau , Biển Tam Tân- Hòn Bà   và Mũi Kê Gà . Cố đưa  Bình Thuận trở thành một cứ điểm lớn  du lịch “ kim cỗ giao duyên” cho tòan quốc và cho Đông Nam Á , đón mời thêm khách du lịch Nga và Bắc Đông Âu  như đã sử dụng kỷ thuật  tân tiến quốc phòng của họ như vào thời Nga Hòang năm 1905 ( cân bằng ảnh hưởng Nga - Tàu  ),  cố đạt mức tăng trưởng dự liêu là 22- 25% các năm 2011- 2015 một năm và 15- 18% một năm vào các năm 2016- 2020 .   Đến năm 2020 ,  cụm đô thị bờ biển  Phan Thiết – Mũi Né sẽ được nối liền  với vùng du lịch Phan Thiết –Mũi Né   và công viên công nghệ  Phan Thiết. Công viên này gồm có  thị xã Phan Thiết,  vùng đô thị  Long Sơn  - Suối Nước , Ngã Hai – Hàm my,  Tân Thạnh. Cụm đô thị  bờ biển  phía Nam tỉnh nhà sẽ được thiết lập  và phát triễn nối kết với du lịch bờ biển, công viên  công nghệ Sơn Mỹ  sẽ gồm  thị trấn La Gi , và vùng đô thị mới  Sơn Mỹ. Nhắm trực tiếp vào ngành du lịch,  xem như đây là một đột khởi phát triễn vững bền quan trọng . Năm 2020 , Bình Thuận  sẽ thiết lập  thêm nhiều không gian du lịch mới :  nới rộng các cụm du lịch  Phan Thiết Mũi Né ,  Cà Ná – Cù Lao Cau- Bình Thạch  ( huyện Tuy Phong), Hòa Thạnh - Thuận Quý,  Hòn Lao – Kê Gà, Tà Cú  – Búng Thi ?  ( huyện  Hàm Thuận Nam )  và La Gi - Hàm Tân. Cảng Hòn Rơm ( ngòai khơi Mũi Né) sẽ dành  cho du lịch đường biển  Bắc Nam.

Phát triễn công nghệ         

        Công nghệ Bình Thuận thịnh vượng các năm đầu thế kỷ thứ 21 , trung bình tỉ xuất tăng trưởng là 21.6 % mỗi năm ,cho đến năm  2007.   Nay  công nghệ Bình Thuận đang phải đối diện khó khăn  việc xử lý  đất đai , điền địa.  Cấp môn bài cho các công viên công nghệ chồng lấn  cùng các dự trữ  và phát triễn titanium  mà thành quả là làm chậm trễ xây dựng ngành này.   Công nghệ quốc doanh đã giảm sút từ năm 2000 đến năm 2007. Lảnh vự tư  nay là  xuất chánh công nghệ, và ngay các đầu tư trực tiếp ngọai quốc cũng vượt qua hẳn công nghệ quốc doanh.   .Dù rằng  các năm 2000- 2007,  công nghệ có tăng trưởng ngọan mục đi nữa,  trong thời gian này  công nghệ cũng chỉ tạo ra 17 200 công ăn việc làm mới  ở tỉnh nhà; trong khi lảnh vực dịch vụ  tăng trưởng chậm hơn lại tạo ra đến 44 100 công ăn việc làm,  và nông lâm ngư tạo ra nhiều hơn đến 57 000 công ăn việc làm. Lẽ dĩ nhiên ,  công nghệ biển  vãnlà công nghệ chánh cho Bìong Thuận . Tỉnh nhà năm  2012 đã có 30 doanh nghiệp  chế biến và xuất khẩu  hải sản  và 40 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu hải sản. Trị giá xuất khẩu hải sản Bình Thuận, năm 2011  đã hơn 85.5 triệu đô la Mỹ.  nhưng phải dè dặt và kỷ lưỡng hơn trong công nghệ đóng tàu , tránh trường hợp phải rút lại môn bài  năm 2012   giấy phép  cho Công ty Hamico Bình thuận Mineral JSC, đăng ký  làm Phức tạp  Công nghệ Đóng tàu – shipbuilding Induzstrial Complex  Ba Đằng diện tích 50 ha , vì  dầu tư và xây cất chậm rì.  Cũng như tháng 8 năm 2012 , Bình Thuận cũng đã phải  yêu cầu Bộ Cong Nghệ và Thương mãi Việt Nam   hủy bỏ 13 phức tạp công  nghệ , tổng diện tích lên đến  trên 430 ha  dự liệu ở  dự án chủ trì  cho năm 2015. Năm 2001 , Bình Thuận  làm đồ án   phát triễn hơn 40 phức tạp  công nghệ, tổng diện tích 1 628ha , nhưng đến cuối năm 2012 chỉ có 12 phức tạp họat động . Các phức tạp này đã  hút dẫn 220 dự án  , tổng số tư bản đăngký là 513 tỉ ĐVN  ( 24.4 triệu đô la ), đem lại 3520 công ăn c việc làm cho dân địa phượng   28 phức tạp  đã đượctỉnh chấp thuận cho phát triễn đầu tư  , nhưng  xất cất chậm trễ và vài  nhà  đầu tư đã phá sản.  Theo dự án nguyên thủy,   huyện Đức Linh  phải xây cất 6 phức tạp, tổng diện tÍch     260 ha,  nhưng 10 năm sau , năm 2012 ,  các phức tạp này lại  bao phủ  hàng trăm lò  gạch kỷ thuật thấp. Theo tỉnh, tình trạng này  do sự kiện  là dự án chủ trì không định nghĩa rỏ ràng các yêu cầu thực tiễn  cho các doanh vụ địa phương, có nghĩa là không khả thi được. Năm 2012 , tỉnh cũng cho biết  là xây cất chậm chạp  ở vài nơi then chốt như  cảng Kê Gà hay trên các phức tạp  xa lộ Dầu Giây – Phan Thiết,  hạ tầng cơ sở chuyễn vận , nguồn nước cung cấp giới hạn  và các hệ thống chửa trị nước  phế thải  yếu kém,  đã cản trở đầu tư

   Các công nghệ  chế biến  để xuất khẩu sử dụng nguyên liệu địa phưong có khuynh hướng tăng trưởng mau lẹ . Vài sản phẩm  tăng trưởng mạnh  như chế biến hải sản đã nói trên, đồ may mặc, vật liệu  xây dựng , nước khóang như nước suối Vĩnh Hảo ( giữa đường Cà Ná -  Tuy Phong ,  khai thác từ thời Đệ  Nhất Cọng Hòa )  và cát khoáng v.v…

   Đáng kể nhất là công nghệ  chế biến aluminium và công nghệ chế bíế titanium .

    Những khó khăn môi sinh, khai thác bauxite hầu như  bị Trung Quốc chủ  trì  ở Lâm Đồng và Đắc Nông , chưa có đường xá để khai thác bauxite  ở các tỉnh Cam Bốt  bên kia Đắc Nông- Đắc Lắc - Bình Phước,  chưa có thũy điện  Stung Treng hay Sesan Lào – Việt đủ để tinh luyện bau xit như ở Bắc đảo- Icelands Âu Châu đã được bàn ttán nhiều nên không  đề cập thêm ở đây nữa .   Chỉ nên biết là ngày 30 tháng 11 nam 2012 , Vinacomin, tổ hợp Viêt Nam khai thác các mỏ kimlọai  đã thiết lập (? ) nhà máy tinh luyện- refine  600 000 tấn(? ) quặng bauxite của nhà máy Tân Rai- Lâm Đồng  thiếu điện  để tinh luyện bauxit.   Hình như cuối năm 2012 đã sản xuất 300 000 tấn ,  hảng nhật  Marubeni xuất khẩu 150 000 tấn sang Nhật và đang điều đình bán cho Trung Quốc,  Mã Lai Á và Trung Đông ( ? )

       Công nghệ thứ Hai là chế biến titanium và một số  kim lọai khác. Viêt am có trử lượng chừng 4 % trử lượng titanium tòan cầu. Ước lượng  khỏang  540 triệu tấn  ( con số  của Bộ Tài nguyên Thiên nhiên và Môi trường lớn hơn,   đến   599 triệu tấn  ), bao gồm  các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận  và Bà Rịa – Vũng Tàu .  Chồng lấn với các mỏ titanium ở các tỉnh này  là những vị trí du lịch Vũng Tàu, Hồ  Tràm, Bình Châu, La Gi, Kê Gà , Phan Thiết, Mũi Né , Cà Ná và Phan Rang . Cục Địa chất  gợi ý chỉ nên khai thác  và chế biến chừng 150 triệu tấn quặng  titanium, dành lại hơn 300 triệu tấn  làm dự trữ quốc gia cho những thế hệ sau. Năm 2012,    vẽ ra hai dự án  phát triễn  2 vùng công nghệ  chuyên trách  chế biến sâu đậm   ti tanium và các kim lọai khác  xuất khẩu và cung cấp cho các công nghệ địa phương.   Công viên Công nghệ  Sông Bình, diện tích 250 ha ở  huyện Bắc Bình( Chợ Lâu ) gần Phan Rí cửa, sẽ đặc thù  chế biến  sâu đậm  titanium , zircon, ilmenite  và rutin.    Trong khi  Vùng Công Nghệ Thắng Hải ( Tháng Hai? )  diện tích  40 ha ở huyện Hàm Tân  sẽ cung cấp nguyên liệu cho Công viên công nghệ Sông Bình .  Năm 2012,  đã có 17 dự án  chế biến titanium  chờ đợi gia nhập công viên công nghệ Sông Bình, miền Bắc BìnhThuận.  Các dự án vĩ mô đại trà  là hảng Nga  -Russian GeoPromining Ltd , trị giá 350 triệu đô la Mỹ ,  hảng  Bình Minh Import  Export Pro duction  and Trade Co.  trị gía 650 triệu đô la, hảng Hanoi Technology Co.  trị giá 130 triệu , hảng Him Lam Mining Co. trị giá 130 triệu và hảng  Hamico Mineral Group.   Một vùng diện  tích 1500 ha – 150 km2    huyện Bắc Bình , phía Bắc Bình Thuận chứa dự trữ   ước lượng  141 triệu tấn. Đây có thể là vùng khai thác mỏ ti tanium lớn nhất nước. Trước đây,  có 18 mỏ  khai thác titanium rải rác   dọc theo bờ biển  Nam Bình Thuận, đa số làm tai hại cho môi trường dân sinh. Cho nên tỉnh Bình Thuận đã  giải tán hay ngưng  các dự án này.  Thay thế,  đưa chúng vào vùng  công nghệ Thắng Hải,  tập trung khai thác và chế biến.  Chánh quyền Bình Thuận  đến năm 2013,  vẫn chưa cấp môn bài  cho các dự án mới , chờ  hòan tất  dự án lập vùng, và chấp thuận của chánh quyền trung ương. Nhưng hy vọng sẽ bắt đầu khai thác  vào các năm 2015 – 2017 ?

Chưa  có thể bỏ lững nông nghiệp ( nông,  lâm ,  ngư )              

 Nông nghiệp có mức tăng trưởng chậm nhất ở Bình Thuận , các năm 2000 -2007 l chỈ là 7.4 % , một phần ba mức tăng trưởng  công nghệ và phân nữa mức dịch vụ .  Tuy nhiên vào thời gian này, nông nghiệp lại  tạo ra nhiều công ăn việc làm nhất,  57 600   cao hơn hẳn dịch vụ chỉ tạo 44 100  công ăn việc làm mới .

Diện tích lúa cả năm tăng từ  65 300 ha năm 1995  đến 93 100 ha năm 2000 , nhưng sau đó không tăng thêm bao nhiêu cả, đạt 96 400 ha năm 2007.  Diện tích lúa  vụ Đông Xuân tăng  gấp 4 lần  từ 5 300 ha  đến   1400 ha năm 2000;  vụ Hè Thu chỉ  tăng đôi  chút, từ  19 400 ha  năm 1995 đến 30 000 ha năm 2000 ; còn vụ  Mùa  thì không mấy thay đổi  ở mức   40 – 43 000 ha.  Trung bình  1/3 diện tích đất nông nghiệp trồng lúa, nhiều nhất ở Hàm thuận Nam,  tỉ lệ nhỏ hơn nhiều tỉnh khác . Sản lượng lúa cả năm  cũng đã gia tăng nhiều, từ 321 000 tấn lúa năm  2000 lên đến 434 600 tấn năm 2007 . Nhưng như vậy cũng chỉ là 400 kg lúa mỗi đầu người , chưa đến mức an tòan thực phẩm ước lượng là 500 kg.  Năng xuất ruộng nước Bình Thuận còn có thể tăng gia thêm nhiều,  nhất là hai vụ Đông Xuân và  Hè Thu, chiếu theo các kỷ thuật  tiên tiến trồng lúa hiện hửu.

 Những năm gần đây, Bình Thuận đã  tăng gia  nhiều lọai cây trồng  đa  niên như  hột điều ,  đào lộn hột – cashew nut  diện tích năm 2007  là 30 971 ha    Đức Linh, Tánh Linh , Hàm Tân , La Gi,   cao su  20 538 ha ở Đức Linh,  tiêu  2091 ha,  cũng ở Đức Linh. Đáng nêu lên là các tộc dân thiểu số  Cờ Ho ( kà hor ) , Chu Ru và Raglai (  ? )  Tánh Linh , Đức Linh nay đã biết lập vườn trồng  đào lộn hột cải thiện dời sống, ngòai việc trồng lúa nước ( ? ). Tuy nhiên cần duyệt lại   xem có nên thay trồng bông vải diện tích chiếm  1900 ha năm 2007 ở Bắc Bình,  mở rộng trồng dưa hấu lấy hột ở các đất đỏ song song các giống dưa, bầu bí …. cho hột khác,  có thể luôn cả hột hướng dương chịu khô hạn đất nhiều cát, cố cải thiện thêm ngành trồng nho ăn tươi  Tuy Phong cho kịp Ninh Thuận và nhất là  chú trọng hơn nữa  ngành trồng thanh long xuất khẩu , Bình Thuận lấy giống Nam Mỹ trồng sớm nhất đất nước,  áp dụng kỷ thuật chong đèn kéo dài ngày- cắt ngắn đêm, vì lẽ các giống thanh long này cần ngày dài mới đâm nhiều hoa cho trái to ; mức sản xuất thanh long Bình Thuận hàng năm nay đã  trên 140 000 tấn     Ngành lâm đóng góp rất ít  vào kinh tế tỉnh nhà và mức tăng trưởng rất thấp  từ năm  2000 đến 2007 .  Trồng lại rừng có cơ gia tăng hơn là khai thác gỗ củi , nhất là các lọai rừng chống cát bay  hay thay thế rừng bằng  các vườn cây lâu năm tán rộng hơn che phủ đồi núi ( cao su ,  hột điều ,tiêu và ngay cả cà phê , ca cao .. hay cây trái khác thích hợp  hơn  cho khí hậu  tương đối khô hạn tỉnh nhà ( nay lại có thể tưới tiêu thêm  nhờ cải thiện hệ thống đê điều kinh -mương , tưới nước từ  các hồ thiên nhiên hay nhân tạo dự trữ nước thủy điện ) theo các hình thức tiết kiệm nước  nay nước nhà đã phổ biến nhiều như tưới mưa phùn- sprinklers , tưới nhỏ giọt – drip irrigation v.v…  

Ngư sản Bình Thuận đã nói nhiều ở phần kinh tế biển, có lẽ chỉ cần thêm là ,  ngòai cá cơm – Anchoviella sp. làm nước mắm Phan Thiết, thịt lát cá mập và các bộ phận  xuất khẩu sang  vài nước Âu Châu làm bíp tết thay thịt bò, cá nục - Decapterus sp.   những  lòai họ cá khế- Carangidae,cá mối  họ Synodidae  quanh các đảo , cù lao ,  biển Bình Thuận  còn chứa nhiều  lại hải sản  quý, hiếm , cao phẩm, thịt ngon như các lọai tôm biển đặc biệt là tôm sú khổng lồ,  sò huyết   bướm – butterfly arca, andara ( ? ) tuy có phần ít hơn ở đầm Ô Loan –Phú Yên ,  sò điệp lông – hairy arca, andara ( ?) , sản lượng còn lớn hơn điệp nhật nguyệt -Amussium japonica ?  v.v…   Các vùng  biển, bờ sông  nên phát triễn mạnh hơn về   nuôi tôm  bán thâm canh , hiện Bình Thuận chỉ mới đạt 1000 ha.  Vùng biển quanh bờ và quanh  các đảo  phải phát triễn mạnh hơn nữa nuôi cá biển trong lồng các hải sản đặc thù như cá mú – grouper,  vài lọai cá ngừ,  tôm hùm 

 

( Irvine , Nam Ca Li- Hoa Kỳ, ngày 12 tháng tư năm 2014 )

 

 


 

 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 641897 visitors (2135928 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free