HÀ NỘI (Phần II)
GS Tôn Thất Trình
Địa hình, khí hậu, thủy văn
Địa hình
Phần lớn diện tích Hà nội là vùng đồng bằng, cao độ trung bình từ 6 5- 10m so với mực nước biển, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo hướng chung của địa hình và cũng là hướng của dòng chảy sông Hồng Vùng đồng bằng .Địa hình đặc trưng của Hà Nội đã được khai thác và sử dụng từ lâu. Trên lớp bồi tích phù sa dày, trung bình 90 - 120m, dân cư đông đúc, tạo nên một nền văn minh lúa nước, trồng rau, màu, hoa, chăn nuôi gia súc v.v.. Phía Bắc Hà Nội là vùng đồi núi thấp và trung bình, có dãy Sóc Sơn, đỉnh cao nhất là Chân Chim 462m. Nhưng khi Sơn Tây nhập vào Hà Nội thì núi Ba Vì ( Tản Viên ), phía tây Vùng cao nhất 1287m .
Khí hậu
Nằm ơ trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, khí hậu Hà Nội mang sắc thái đặc trưng của khí hậu tòan vùng. Đặc điểm là phụ nhiệt đới ẩm, nhiều mưa, gió mùa. Nhiệt độ trung bình là 23- 240C . Độ ẩm trung bình hàng năm là 84% , ít thay đổi theo các tháng, thường chỉ dao động trong khỏang 81-86 %. Lượng mưa trung bình khỏang 1600- 1800 mm; mỗi năm có khỏang 140 ngày mưa. Giữa hai mùa trong năm: mùa hạ và mùa đông, có thay đổi và khác biệt đúng như khí hậu điển hình miền Bắc Việt là mùa hạ là nóng và mưa nhiều với gió thịnh hành hướng Đông Nam và mùa đông tương đối lạnh và khô hạn. Vào mùa hạ, từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất là tháng 7 xấp xỉ 290C ; mưa nhiều chiếm tới 85 % lượng mưa tòan năm. Tháng 8 mưa nhiều nhất, 16- 18 ngày mưa, lượng mưa trung bình 300- 350mm. Mùa đông từ tháng 11 đến tháng 4 tương đối lạnh, ít mưa, gió thịnh hành là Đông Bắc. Tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất là tháng giêng (160C ), đồng thời cũng là tháng có lượng mưa trung bình thấp nhất ( 16- 18mm ). Nhắc lại là ở Vùng Vịnh Hạ Long, vào các tháng này, khí trời có thể rất lạnh. Tháng 10 là tháng tốt nhất về thời tiết. Hà Nội vào mùa đông thường bị mây che, và sương mù; trung bình tháng 2 nhật chiếu chỉ còn 1.8 giờ /ngày.
Thủy văn
Hai sông chánh là sông Hồng và sông Thái Bình, độ dốc nhỏ, các dòng uốn khúc quanh co . Đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài khỏang 93 km. Bình quân lưu lượng dòng chảy qua thành phố 90 000 m3; gồm có ở phía hửu ngạn là sông Nhuệ, sông Đáy, sông Tích và ở phía tả ngạn là sông Đuống. Hệ thống sông Thái Bình thuộc phía Đông Bắc Hà Nội gồm sông Công , sông Cà Lài, sông Cà Lồ, sông Cầu. Trên địa phận thành phố, còn các hệ thống sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Lừ, sông Sét ; nhiệm vụ chủ yếu là thoát thủy( tiêu nước ). Chế độ nước sông Hà Nội chia ra hai mùa rỏ rệt . Mùa lũ, trùng mùa mưa, kéo dài 5 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, tập trung 70- 75 % tổng lượng nước cả năm. Cao điểm mùa lũ thường vào tháng 7, tháng 8 . Mùa cạn kéo dài 7 tháng từ tháng11 đến tháng 5, dòng chảy nhỏ, nước trong, ít phù sa. Lũ lụt là một trong những hiện tượng gây tác hại nghiêm trọng đến đời sống dân cư trên địa bàn thành phố. Biện pháp an toàn nhất là đắp đê. Hà Nội có hệ thống đê điều kiêncố, xây dựng từ lâu đời, để ngăn dòng nước sông Hồng vào mùa lũ.
Hà Nội còn có nguồn nước ngầm khá phong phú khả năng khai thác 1 triệu m3 /ngày đêm, đáp ứng nhu cầu nước sinh họat và sản xuất, đặc biệt với khu vực nội thành.
Thủ đô nhiều hồ thế giới
Hà Nội là một trong những thủ đô có nhiều hồ đầm trên thế giới.Tính ra có đến 3600 ha hồ, đầm. Trong đó có 27 hồ đầm lớn như Hồ Tây, Trúc Bạch, Hòan Kiếm, Bảy Mẩu, Thiền Quang, Ngọc Khánh, Giảng Võ, Thủ Lệ, Thành Công… Hồ Tây rộng tới 500 ha, đường vòng quanh hồ dài tới 17 km. Hồ có thể là một đọan sông Hồng còn sót lại sau khi đổi dòng. Theo truyền thuyết truyện Hồ tinh, thi đây là hồ Xác Cáo: nguyên chỗ này là núi , có con cáo 9 đuôi tới ẩn nấp và làm hại dân. Long Quân mới dâng nước phá hang cáo . Đất sụt thành hồ vùi chôn xác cáo. Theo truyện Khổng lồ đúc chuông thì hồ có tên là hồ Trâu Vàng: khổng lồ có tài thu hết đồng đen phương Bắc đem về đúc chuông. Vì đồng đen là mẹ vàng cho nên khi đánh chuông, tiếng vang sang Bắc, con trâu vàng nghe liền vùng chạy đi tìm. Tới đây nó quần mãi nên đất sụt thành hồ. Đến đời Lý ( thế kỷ 11 ) hồ đi và lịch sử với tên Dâm Đàm nghĩa là Mù Sương. Lúc đó, vùng này còn rậm rạp, cây cối um tùm còn cả thú lớn như hổ báo . Thế kỷ 15 , đổi tên là Tây Hồ. Còn có tên là Lãng Bạc và được xem như là một chiến công thời Hà Bà Trưng chống Mã Viện. Thực ra thì Lãng Bạc, ngày đó không phải là vùng Hà Nội mà là vùng đất trũng xen gò đồi núi ở Huyện Tiên Sơn, Hà Bắc. Lãng là sóng lớn, và Bạc là bến hay thuyền ghé bến, thế thì Hồ Tây đúng là bến có sóng lớn. Về mùa giông bảo, cho tới nay, sóng Hồ Tây cũng ghê gớm lắm. Đường Cổ Ngư, nay là đường Thanh Niên ( ? ), ngăn một goc hồ Tây thành một hồ biệt lập là Hồ Trúc Bạch. Hồ Trúc Bạch nằm bên đất làng Trúc Yên, chuyên làm mành mành, nên nhà nào cũng trồng trúc. Đời chúa Trịnh Giang ( 1729- 1740 ) xây ở đây điện Trúc Lâm làm nơi nghĩ mát. Sau đó điện lại là nơi giam cầm những cung nữ có lỗi. Những cô gái này phải dệt lụa để tự túc. Lụa đẹp, bóng bẩy, gọi là Lụa Trúc, chữ Hán gọi là trúc bạch. Do vậy mà thành tên. Hồ Hòan Kiếm , nếu cũng là một đọan dòng cũ sông Hồng sau khi chuyễn dòng, thì Hồ Hòan Kiếm nay đã có đến vài nghìn năm. Nhưng tên Hòan Kiếm thì mới có từ 5 thế kỷ nay. Trước đó, hồ có tên là Lục Thủy, vì nước hồ bốn mùa xanh ngắt. Từ thế kỷ 15, tên Hòan Kiếm là theo sự tích Lê Lợi trả gươm. Truyện kể rằng Lê Lợi suốt 10 năm ở Lam sơn luôn luôn mang thanh gươm bắt được. Dẹp xong giặc Minh , về Thăng Long, một hôm ngự thuyền dạo hồ Lục Thủy , bổng có con rùa nổi lên. Vua Lê rút guơm ra trỏ, thì rùa liền đớp ngay thanh gươm lặn xuống. Như vậy vua trả gươm cho trời .nên có tên là Hòan Kiếm, nôm na là Hồ Gươm. Hồ Thiền Quang nằm trên địa phận quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Năm 1931, hồ có tên là Liên Thủy. Thiền Quang ( Ánh sáng nhà Phật ) chỉ là một làng nằm ở phía Đồng Nam hồ . Ngòai làng Thiền Quang, quanh hồ còn có làng Liên Thủy ở phía Bắc và phía Tây, làng Quang Hoa ở phía Tây Nam và làng Pháp Hoa ở phía Nam. Hồ khá rộng, nhưng diện tích nay còn chừng 6 ha, vì thời Pháp thuộc cho lấp dần để mở phố. Phía Nam Hòan Kiếm thông sang hồ Hồ Bảy Mẩu. Hồ Suối Hai, cách thị trấn Sơn Tây khỏang 16 km. Suối Hai là tên gọi chung của hai suối Yên Cư và Cầu Rồng đã có từ ngàn vạn năm nay, nhưng hồ nước Suối Hai chỉ mới có từ thập niên 1960. Hồ cách thị trấn Sơn Tây chừng 16 km. Hàng năm cứ hết mùa mưa là nước các suối nhỏ đổ dồn vào Suối Hai rồi chảy về sông Tích. Hể mưa nhiều là úng lụt. Do độ dốc cao, nên hết mùa mưa sông Tích cũng cạn và hạn hán đe dọa cả một vùng Nam huyện Bà Vì và Thạch Thất. Năm 1958, để giải quyết hai nạn lũ lụt và hạn hán, chánh quyền miền Bắc đã thực hiện dự án hệ thống hồ Suối Hai, hoàn thành năm 1964. Gò đống và một nghìn ha núi đồi biến thành một hồ điều tiết nước, rộng 800 ha, bề sâu 20m, chứa 50 triệu m3 đủ tưới cho 8000 ha ruộng vùng Ba Vì , lọai trừ úng lụt do sông Tích gây ra. Hồ Linh Lang nằm trong công viên Thủ Lệ, một vườn Bách Thú khỏi công năm 1975 và hòan tất 2 năm sau. Hồ Linh Lang rộng 80 000 m2 ( 8 ha ) , có Núi Bò và gò đất chạy dài bên bờ hồ như bầy rồng rắn đuổi nhau bên bến nước…
Các danh thắng văn hóa , lịch sử
Hà Nội, gần 1000 năm văn hiến, đã lưu giữ đựợc nhiều di tích văn hóa- lịch sử, có giá trị lớn đối với du lịch. Các triều đại Viêt Nam đều để lại dấu ấn địa linh nhân kiệt, kết tinh đặc tính , phẩm chất con người Việt Nam. TP Hà Nội khoe là có nhiều vị trí văn hóa hơn bất cứ mọi thành phố nước nhà . Vài trăm năm gần đây, các kho tàng văn hóa lịch sử của một nền văn minh,văn hiến trên 1000 năm được bảo tồn tốt đẹp.
36 Phố - Phường cũ
Khu vực cũ , gần Hồ Hoàn Kiếm là nơi xây cất , kiến trúc Hà Nội cổ xưa. Đầu thế kỷ 20, Hà Nội chỉ có 36 phố phường, nay phần lớn là thành phần của khu phố cũ. Phố và Phường khác nhau. Ngày trước, ngòai nội dung dùng để chỉ những tổ chức những người cùng làm một nghệ ( phường chèo, phường thợ ), còn một nội dung khác nữa : dùng để chỉ những khu vực địa lý, được xem là đơn vị hành chánh cấp cơ sở ở Kinh Thành Thăng Long. Sử cũ còn ghi Thăng Long đời Trần có 61 phường. Đời Lê gộp lại còn 36 phường. Nguyễn Trãi ghi chép cụ thể ở Địa Dư Chí : “ Thượng Kinh là Kinh đô... có 1 phủ , 2 huyện. Phủ là Phụng Thiên, 2 huyện là Thọ Xương và Quảng Đức . Mỗi huyện đều có 18 phường”. Cuối thế kỷ thứ 18, Phạm Đình Hổ viết trong Vũ Trung Tùy Bút : Kinh thành Thăng Long chia ra 36 phường. Như vậy suốt 3 thế kỷ, nhà Lê vẫn giữ nguyên sự phân định hành chánh: Kinh đô Thăng Long là phủ Phụng Thiên gồm 36 phường. Những phường này chia ra làm 3 lọai : phường làm nghề nông, phường thợ thủ công và phường buôn bán. Phường làm nghề nông ít biến động, thường giữ nguyên tên và địa giới cho đến gần năm 2000. Phía Bắc là các phường Yên Hoa ( nay là Yên Phụ), Nghi Tàm, Quảng Bá, Tây Hồ, Nhật Chiêu ( nay là Nhật Tân ). Phía Tây có Xã Đàn, Thịnh Quang, Nhược Công ( nay là Thành Công ). Phía Nam có Kim Hoa ( nay là Kim Liên ), Đông Tác, Quan Trạm. Các phường buôn bán và thợ thủ công thường đan xen nhau, tập trung nơi sông Hồng và sông Tô hợp lưu. Có những phường đa số dân làm buôn bán. Như phường Giang Khẩu ở ngay cửa sông Tô Lịch, trên bến dưới thuyền rộn rịp,nằm giữa hai phố Nguyễn Siêu và Hàng Buồm .Không những lái buôn tứ chiếng ( đọc lệch chữ tứ trấn: Kinh Bắc, Sơn Tây, Hải Đông, Sơn Nam ) mà cả lái buôn nước ngòai. Nhiều của hàng thương nhân Hà ( Hòa ) Lan, Anh, Bồ Đào Nha đã có mặt ở đây từ thế kỷ thứ 17. Đông nhất là Hoa Kiều mở tiệm buôn và tiệm ăn( cao lâu). Thế kỷ thứ 18 kiêng tên chúa Trịnh Giang, nên đổi tên là Hà Khẩu. Một mặt hàng quen thuộc bày bán ở Hàng Buồm là các lọai buồm, buồm vải, buồm có, buồm thuyền đinh, buồm thuyền bồng ... Một phường buôn bán khác khá đông đúc là phường Diên Hưng, nay là phố Hàng Ngang, có nhiều cửa hàng Hoa Kiều bán thuốc Bắc và tạp hóa. Các phường thủ công phân bố theo dạng riêng biệt theo ngành nghề hay xen kẻ phường buôn bán. Vùng Bưởi có 5 phường: Bái Ân và Trích Sải là 2 phường dệt lụa, dệt gấm, 2 phường Yên Thái, Hà Khẩu làm giấy và Võng Thị là phường nấu rượu kiêm trồng hoa .. . Thợ tiện ở làng Nhị Khê lên Thăng Long, tập trung tại phường Đông Hà, lập ra phố Hàng Tiện, nay là đọan đầu phía Đông của phố Hàng Gai , thông ra ngõ Tô Tịch và ngõ Hàng Hành. Thợ đúc bạc ở Trâu Khê ( trấn Hải Đông ), qui tụ ở phường Đông Các lập ra phố Hàng Bạc. Thợ nhuộm màu đỏ, màu cánh sen ở Đan Loan ( trấn Đông ), qui tụ ở phường Thái Cực, lập ra phố Hàng Đào . Thợ nhuộm thâm ở Liêu Xá, Liêu Xuyên ( cũng trấn Đông) lại qui tụ ở phường Báo Thiên, lập ra phốThợ Nhuộm. Dân 2 làng Chắm Trên và Chắm Giữa xứ Đông, có nghề đóng giày dép, cư ngụ ở phường Đông Các, lâp ra phố Hàng Giày và Ngõ Hài Tượng. Dân làng Giới Tế xứ Kinh Bắc, trú ở phường Cỗ Vũ, làm các lọai mành mành, lập ra phố Hàng Mành …
Còn phố, nguyên nghĩa là nơi bán hàng, hay cửa hiệu ngày nay. Các phố tập trung xen xát nhau thành một dãy dài cũng được gọi là phố. Dần dần từ phố là một dãy cửa hàng, lấn áp
từ phố nguyên nghĩa là một cửa hàng và thế là có phố Hàng Bạc, phố Hàng Chiếu …. Trong một phường có nhiều phố như phường Đông Các, có phố Hàng Bạc, phố Hàng Giày , phố Hàng Mắm . Tới nay, Hà Nội 36 phố phường được mọi người hiểu như là đại diện cho Hà Nội cũ, với những dãy phố bắt đầu bằng chữ Hàng, như Hàng Nón , Hàng Khoai , Hàng Điếu , Hàng Thiếc v.v...Tên đường các phố phường nay vần phản ảnh phần nào tính cách chuyên biệt , chuyên nghề cỗ truyền nhưng rất ít phố phường còn duy trì phương thức buôn bán xưa cũ! Các thủ công và cửa tiệm vẫn rất nổi tiếng, nhất là các cửa tiệm bán hàng tơ lụa. Đáng chú ý là cửa tiệm không còn thuộc các gia đình nguyên quán xưa cũ! Dân Hà Nội sinh sống đã ba đời ở các phố phường cũ rất hiếm hoi. Ngày nay, họ đến từ các tỉnh khác . Chủ nhân tiệm xưa hoặc cho thuê cửa hàng và lui về bên trong hay đằng sau sinh sống, hay đã bỏ đi đến đường phố khác. Nhịp thay đổi này đã tăng thêm nhiều khi chánh quyền bải bỏ chánh sách qui họach trung ương và đơn giản việc đăng ký gia đình cấp quận, huyện. Di chuyễn bằng xe xích lô rất được du khách thích thú ở khu phố - phường xưa cũ. Xe gắn máy motor bikes đã thay thế xe đạp từ vài chục năm rồi, có thể gây ra kẹt xe, nhưng chưa bằng nạn kẹt xe ở Sài Gòn. Khu phố phường cũ có đại lý cho thuê xe gắn máy di chuyễn trong phạm vi khu phố phường cũ. Tiện nhất là thuê “xe ôm” - hug motorbikes cho chính mình hay ngồi phía sau ôm người lái xe gắn máy để tránh kẹt xe, di chuyễn thời gian bất thường hay đi đến đường lạ. Cũng có thể thăm viếng bằng tắc xi, nhưng rẽ nhất là dùng xe búyt chở đến nhiều đường TP Hà Nội, vé mua ngay trên xe và rất rẽ: một chuyến chi tốn 20 xu, trong khi tắc xi tốn 10 $ - USD .
Các danh thắng ở khu Phố - Phường cũ không nên quên là:
- Văn Miếu- Quốc Tử Giám (The Temple of Literature) . Văn Miếu được xây dựng tháng 10 năm 1070, làm nơi biểu diễn Nho Giáo. Quốc Tử Giám xây dựng 6 năm sau, năm 1076, ở kề sau Văn Miếu, ban đầu là nơi học các hòang tử sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong thiên hạ. Tường bao quanh Văn Miếu xây bằng gạch Bát Tràng. Bên trong có tường ngăn ra làm 5 khu. Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính, trên cổng có chữ “ Văn Miếu Môn”
. Lối đi ở giữa dẫn tới cổng “ Đại Trung Môn” , mở đầu cho khu thứ 2. Hai bên có 2 cổng nhỏ tên là “ Thành Đức “ và “Đại Tài”. Rồi đến “ Khuê Văn Các” ( gác vẽ đẹp của Sao Khuê chủ về văn học ), hai bên cũng có 2 cổng nhỏ là “ Súc Văn” ( văn hàm súc ) và “ Bỉ Văn”( văn sáng đẹp ) . Khu thứ 3 là từ gác Khuê Văn tới “ Đại Thành Môn” .Giữa khu này có một hồ vuông là “Thiên Quang Tịnh” (giếng trời trong sáng ), có tường hoa bao quanh. Hai bên hồ là khu Vườn Bia , ghi tên những người đổ đầu tiến sĩ. Năm 2000 còn có 82 bia . Xưa nhất là bia ghi khoa Đại Bảo thứ 3 ( năm 1442 ), muộn nhất là bia Cảnh Hưng 40 ( 1779 ). Qua cửa Đại Thành là khu thứ 4. Một sân rộng, hai bên là dãy nhà tả vu và hửu vu, vốn dùng làm nơi thờ các danh nho ( như Chu Văn An , Trương Hán Siêu ). Cuối sân là nhà đại bái và hậu cung , chứa một số hiện vật quí : bên trái là Bích Ung Đại Chung - Chuông lớn của nhà Giám, do Nguyễn Nhiễm đứng đúc năm 1768 ; bên phải là một tấm Khánh Đá, mặt trong có 2 chữ Thọ Xương, mặt ngòai khắc bài Minh viết kiểu chử lệ , nói về công dụng của lọai nhạc khí này. Sau khu đại bái là trường Giám cũ. Khi nhà Nguyễn Phước dời trường này vào Huế thì chuyễn làm đền Khải Thanh. Năm 1946- 47, quân đội viễn chinh Pháp đã đốt trụi khu này.
- Chùa Một Cột- One Pillar Pagoda . Dựng năm 1049, tên chữ Diên Hựu nghĩa là phúc lành lâu dài.Theo truyền tụng, vua Lý Thái Tông nằm mộng được Phật Bà dắt lên ngự tọa tòa sen, quần thần cho là điềm gở xin vua cho xây ngôi chùa như bông sen nở cầu phúc. Quy mô chùa to lớn, lộng lẫy hơn hiện nay nhiều. Một tấm bia ở Chùa Long Đọi ( Hà Nam Ninh ) ghi rõ điều đó. Chùa còn có một trong 4 đại khí là Chuông Quy Điền do Ỷ Lan phu nhân cho đúc. Đến thế kỷ thứ 15, giặc Minh phá hủy lấy đồng đúc đạn khi bị nghĩa quân Lam Sơn vây Đông Quan ( Hà Nội ). Chùa Một Cột có thể xếp vào hàng những ngôi chùa lớn nước ta, nhưng hiện nay qua nhiều lần trùng tu, chỉ còn phảng phất hình bóng xưa. Độc đáo kiến trúc chùa Một Cột là tòan bộ đặt trên một cột đá cao 20m, kết hợp thi vị qua hình tượng bông sen, kết cấu kiến trúc gỗ theo những hệ thống mộng giằng ,đặc biệt sử dụng các cột chồng chéo lớn từ cột đến sàn, vừa tạo thế vững chắc, vừa mang lại hiệu quả thẩm mỹ đường lượn cánh sen, hài hòa nhờ một đối xứng ảo giữa mái và sàn. Khối kiến trúc được cảnh quan, ao, cây cối phụ trợ, tạo nên sự gần gũi, tinh khiết, thanh tịch. Hòa đồng vào trời nước, màu xanh cây lá ẩn hiện, khiến người rũ sạch ưu phiền, đạt tâm hồn thanh cao, như hai câu thơ Huyền Quang kể ở nhập đề ( Tiếng chuông… , ... như sóng màu phong đỏ . )
- Cột Cờ Hà Nội- The Flag Tower of Hà Nội. Đây là một trong những công trình ít ỏi may mắn thóat khỏi sự phá hủy thực dân Pháp tiến hành trong 3 năm 1894 - 1897. Vì chiều cao 60m, Cột Cờ này được quan chỉ huy Pháp lúc đó làm đài quan sát và trạm thông tin liên lạc đồn bót chung quanh, ban ngày dùng cơ làm tín hiệu, ban đêm dùng đèn. Cột Cờ Hà Nội xây năm 1812, gồm 3 tầng đế và một tầng cột. Mỗi chiều tầng một dài 42.4m, có 2 thang gạch dẫn lên. Mỗi chiều tầng 2 dài 29m, có 4 cửa cửa hướng Đông trên đắp hai chữ “ Nghênh Húc - Đón ánh nắng ban mai” , cửa Tây gọi là “ Hồi Quang - phản chiếu ánh sáng” , cửa Nam là “ Hướng minh - Hướng về ánh sáng”, cửa Bắc không có chữ đề . Mỗi chiều tầng 3 dài 14.96 m, có cửa lên cầu thang trông về hướng Bắc. Trên tầng này là thân Cột Cờ, cao khỏang 40m, hình trụ 8 cạnh, thon dần lên trên, mỗi cạnh đáy chừng 2m. Trong thân, có cầu thang 54 bậc xoái tròn ốc lên tới đỉnh. Tòan thể được soi sáng và thông hơi bằng 39 lỗ hình hoa thị và 8 lỗ hình rẽ quạt. Đỉnh Cột Cờ cấu tạo thành một lầu bát giác, cao 3m, có 8 cửa sổ tương ứng 8 cạnh. Giữa lầu là một trụ tròn, đường kính 40cm đến đỉnh lầu, là chỗ cắm cán cờ ( cao 8m ).
-Năm 2004 , khám phá ra một phần to lớn xưa cũ đã 900 năm ( ? ) của Thành Hà Nội gần Quảng Trường Ba Đình.
…
Hà Nội thời Pháp thuộc
Vì là trung tâm hành chánh của Đông Pháp -French Indochina, kiến trúc kiểu Pháp thuộc địa trở nên thể trội, chủ trì. Rất nhiều thể này còn tồn tại đến ngày nay : các đại lộ cây đại mộc dọc dài như đường Phan Đình Phùng cùng nhiều vi la - biệt thự, Nhà Hát Lớn- Grand Opera House, Dinh Chủ Tịch ( trước năm 1945 là Phủ Thống Sứ Bắc Kỳ, từ 9-3 -1945 đến 19-8 -1945 là Phủ Khâm Sai , sau ngày 2- 9 là Bắc Bộ Phủ, sau năm 1954 là Nhà Khách của Chánh Phủ ), Nhà Thờ Saint Joseph Cathedral, Khách Sạn Lịch Sử HoteI Metropole. Kiến trúc thuộc địa là một pha trộn chiết trung các kiểu Pháp và Việt Nam cổ truyền, tỉ như Viện Bảo Tàng Quốc Gia Sử Việt , Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Quốc gia và Trường Đại học Y khoa Đông Dương. ...Các đường phố Hà Nội, nội thành hay tân tạo- nới rộng, cũng như những đại lộ Sài gon, được chuyên viên Pháp- Việt lựa trồng những lòai cây đặc hửu đất nước hay các miền như sấu, phượng, hoa sữa, bằng lăng, xà cừ, bàng v.v… năm 1999, đếm ra đến 46 lòai dị biệt, số lượng cây xanh tổng cộng có phần lớn hơn Sài Gòn nhiều.
Năm 1890, Pháp thuộc địa đuổi dân nguyên ở đất phường Khán Xuân, lấy đất lập ra một khu vườn trồng cây ,nuôi thú. Pháp gọi là Vườn Thảo mộc - Jardin botanique, nhưng dân Hà Nội cứ quen gọi là Trại Hàng Hoa hoặc Vườn Bách Thú. Tới đại chiến thứ hai 1930 - 1945 , chim muông Bách Thú chết dần vì thiếu săn sóc. Cuối cùng, Pháp chuyễn số thú còn lại vào Sở Thú Sài Gòn. Chỉ còn vườn cây. Sau 1954, chánh quyền cho tu bổ lại và gọi tên là Công viên Bách Thảo. Công viên rộng 20 ha, chứa nhiều rặng cây cổ thụ, cành lá sum soe, tán rộng, bóng dài nhiều bồn hoa đẹp, lối đi uốn lượn quanh co kéo dài thêm dặm đường tham quan, với cả một vạt hồ nước trong veo ăm ắp hoa sen, hoa súng tất cả như muốn níu chân du khách lại. Nơi đây nguyên là phường Khán Xuân, sinh quán của Hồ Xuân Hương bà chúa thơ nôm, nên vườn Bách Thảo càng thêm hút dẫn. Có hai lối vào, một ở đầu phố Hòang Hoa Thám, một ở giữa phố Ngọc Hà. Ở góc Tây Bắc Công viên, có một gò cao, được gọi sai là núi Khán hay núi Nùng thật sự đó là núi Sưa. Một lòai cây có gỗ khá cứng, không mấy thua kém gỗ lim. Vào đầu thập niên1990, tại đỉnh núi còn có một ngôi miếu cũ thờ Huyền Thiên Hắc Đế , một cậu bé tương truyền có công giúp vua Lý đánh giặc ngọai xâm . Công viên Thống Nhất >( năm 1980, có tên ngọai lai là Lê Nin ), diện tích 50 ha, nằm giữa 4 phố Trần Nhân Tôn, Lê Duẫn, Đại Cồ Việt, Nguyễn đình Chiểu. Trước năm 1958 , đây là nơi đổ rác của Thành phố, có Hồ Bảy Mẩu xen vào giữa. Năm 1958, Ủy Ban thành phố quyết định xây dựng thành một công viên làm nơi giải trí cho đồng bào Thủ Đô. Năm 1960, Công viên khánh thành, mở cửa đón khách. Không rỏ nay Công viên đã có nhiều cây cổ thụ đặc sắc như Bách Thảo chưa ? Nhưng công viên năm 2000 đã có nhiều bồn hoa 4 mùa phô sắc, những dãy thùy liễu mượt mà, những ngàn thông suốt năm xanh thẳm, những cây trái ngọt hoa thơm , Công viên năm 2000 cũng đã có một khu giải trí riêng biệt cho thiếu nhi , có đu quay, có máy bay dặt trên trụ chạy điện. Công Viên còn có nhà kiếng ( gương ) dị dạng hấp dẫn, gây cười cho khách tham quan . Khắp các lối đường ngang đều có những dãy ghế đá duyên dáng, nép mình bên vòm hoa, tiện cho chuyện trò tâm sự, và một dải hồ hửu tình cho đôi bạn mặc sức bơi thuyền ngược xuôi trên hồ . Còn có cả Khu Phong Lan hàng trăm chủng lọai và cơ man nào là cây cảnh , cây thế…, những bể lớn, bể nhỏ cá vàng, cá bạc tung tăng bơi lội. Người già cả có khu Đảo Hòa Bình, giũa hồ yên tĩnh cho các cụ trầm tư. Cuối thập niên 1999, Công viên dành riêng một Khu tổ chức Hội Hoa Xuân,hàng năm tụ hội mọi tài hoa bậc nhất của ngành cây xanh cả nước trong dịp xuân về . Những lòai cỏ đẹp, hoa xinh khắp nơi được gửi về đây ... Quảng Truờng Ba Đình, nguyên là khu vực Cửa Tây của thành Hà Nội cổ . Thời Pháp thuộc, Pháp phá thành làm một vườn hoa nhỏ . Nơi đây gọi là Điểm Tròn Puginier . Năm 1945, mới có tên là vườn hoa Ba Đình . Ba Đình là để nhớ dải đất Ba Đình ở tỉnh Thanh Hóa, nơi đã xảy ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp của Đinh Công Tráng kéo dài từ tháng 9 - 1886 đến tháng giêng 1887. Nơi đây đã diễn ra những sự kiện troọng đại của thủ đô và của cả nước. Chiều dài Quảng Trường là 320m, chiều rộng 100m, đủ chỗ cho 200 000 người dự mít tinh. Quảng Trường cũng có 168 ô cỏ, bốn mùa xanh tươi , ở giữa là cột cờ cao 30 m ...
Các vườn hoa khác của Hà Nội đáng kể thêm là: - vườn hoa Bách Việt ở góc các phố Hàng Bông, Tràng Thi, Cửa Nam. Thời Pháp thuộc có tên là vườn hoa Neyrê hay vườn hoa “Đầm Xòe” vì có một pho tượng nữ thần Tự Do của Pháp dựng ở đây. Sau năm 1945, tượng đầm xòe bị dân gian phá đổ và đổi tên là vườn Bắc Sơn, nhưng dân gian lại quen gọi là vườn hoa Cửa Nam - Vườn hoa Chi Lăng ở giữa các đường Trần Phú, Hòang Diệu, Điện Biên Phủ. Thời Pháp thuộc gọi là vưòn hoa Robin ( Rôbanh ) dân gian lại quen gọi là vườn hoa Canh Nông hay Cột Cờ - Vườn hoa GănĐi - Ghandi trước có tên là Chí Linh, thời Pháp thuộc tên là vườn hoa Paul Bert- Pôn Be ở phía Đông Hồ Gươm, trước mặt Ngân Hàng Quốc Gia các phố Đinh tiên Hoàng, Lê Thạch, Ngô Quyền, Lê Lai bao quanh - Vườn hoa Diên Hồng ở chõ hai phố Ngô Quyền và Lý Thái Tổ giao nhau, trước cửa Bắc Bộ Phủ cũ, nay là Nhà Khách của Chánh Phủ. Thời Pháp thuộc là vườn hoa Savatsieur- Xavatsiơ, dân gian quen gọi là vườn hoa Con Cóc - Vườn hoa Mê Linh ở giữa 3 phố Hai Bà Trưng, Quan Sứ, Thợ Nhuộm, đằng sau Hỏa Lò. Thời Pháp thuộc là Vườn hoa Nhà Lao. Dân gian quen gọi là vườn hoa Hỏa Lò - Vườn hoa Pasteur- Paxtơ ở chỗ tiếp giáp các phố Nguyễn Công Trứ, Trần ThánhTông, Tăng Bạt Hổ, A. Yersin - Vườn hoa Tao Đàn ở đầu các phố Lý Thường Kiệt, Phan Huy Chú, gặp phố Lê Thánh Tông. Thời Pháp thuộc là vườn hoa Trường Đại học . Sau 1945 là vườn Hoa Lư - Vườn Tây Hồ ở bờ Đông Nam Hồ Tây , chỗ tiếp giáp các phố Quan Thánh, Hòang Hoa Thám, Phan ĐìnhPhùng và cạnh phố Mai Xuân Thưởng. Thời Pháp thuộc gọi là vườn Ecker- Écke , sau 1945 gọi là vườn Lãng Bạc - Vườn hoa Vạn Xuân ở đầu các phố Quán Thánh, Phan Đình Phùng, Hàng Đậu. Thời Pháp thuộc là vườn hoa Carnot - Cácnô . Sau 1945 là vườn hoa Ba Đình. Dân gian quen gọi là vườn hoa Hàng Đậu.
Các Chùa, Đền danh tiếng Hà Nội( ngòai chùa Một Cột đã nói trên )
|