03/4/2014
Lạm bàn về một tỉnh Đông Bắc, nằm sâu trong nội địa và là một trong những cửa ngõ đi vào Tây Bắc, dân miền Nam và con cháu dân Bắc di cư 1954- 56 ít khi biết đến :
...Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ ?
Có nhớ dáng người đò độc mộc,
Trên dòng nước lũ hoa đong đưa …
( bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng 1918 - 1988 )
Tây Bắc ư ? có riêng gì Tây Bắc,
Khi lòng ta đã hóa những con tàu,
Khi tổ quốc bốn bề lên tiếng hát,
Tâm hồn ta là Tây Bắc chớ còn đâu !
… Nhựa nóng 10 năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ,
Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lữa,
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta.
Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng ?
Mỗi đêm khuya không uống một vần trăng ?
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
( bài thơ Tiếng Hát Con Tàu, 1960; Chế Lan Viên 1920 -2003 ?)
Vị trí địa lý, phạm vi lảnh thổ , phân chia hành chánh
Lảnh thổ của tiỉnh nằm trong tọa độ 21º 24’ 40’’ - 22º 16’ 32’’ vĩ tuyến Bắc và từ 103º 56’ 26’’ - 105º 03 07”’ kinh Tuyến Đông . Phía Bắc Yên Bái giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp Phú Thọ, phía Đông giáp Tuyên Quang và Hà Giang, phía Tây giáp Sơn La. Diện tích tự nhiên cả tỉnh là 6882. 92 km2( có khi dùng con số 6899.5 km2 ), đứng hàng thứ 15( chiếm 2.08 % tổng diện tích VN) và thứ 50 về số dân ( chiếm 0.89 % ) cả nước .Yên Bái nằm ở khỏang giữa quốc lộ 2 nối Hà Nội và các tỉnh Đồng Bằng Sông Hồng với cửa khẩu Lào Cai và từ đấy qua Hà Khẩu sang thành phố Côn Minh thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Nhưng việc nằm sâu nội dịa cùng với địa hình núi non ít nhiều, cũng gây ra một số khó khăn cho việc thiết lập các mối liên hệ kinh tế trong và ngòai tỉnh.
Phân chia hành chánh
Đời Nhà Trần, Yên Bái có thể thuộc Tuyên Quang là một châu thuộc lộ Quốc Oai . Năm 1469 , đổi là thừa tuyên Tuyên Quang. Đời Mạc đổi là trấn Tuyên Quang . Trước 1888 , tỉnh Tuyên Quang gồm 2 phủ là Yên Bình và Tương Yên . Một phần Yên Bình nay là huyện Yên Bình( có 2 thị trấn là huyện lỵ Yên Bình và Thác Bà ), nay thuộc tỉnh Yên Bái. Tương Yên có có 3 huyện và hai châu là Chiêm Hóa và Lục Yên. Châu Lục Yên nay thành huyện Lục Yên, nay thuộc tỉnh Yên Bái huyện lỵ là Yên Thế. Yên Bái được thành lập năm 1900. Địa Bàn khi đó chỉ gồm huyện Trấn Yên. Tỉnh lỵ đặt tại Yên Bái . Năm 1975 , Yên Bái cùng với Lào Cai và Nghĩa Lộ sáp nhập thành tỉnh Hòang Liên Sơn. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, theo nghị quyết Quốc hội khóa VII, tỉnh Hòang Liên Sơn tách ra thành 2 tỉnh : Yên Bái và Lào Cai. Lúc này , Yên Bái nhận thêm 3 huyện : Văn Chấn, Trạm Tấu, Mù Căng Chải của Nghĩa Lộ cũ và chuyển 2 huyện : Văn Bàn và Bảo Yên sang Lào Cai. Trên phương diện hành chánh Yên Bái hiện có 2 thị xã là Yên Bái và Nghĩa Lộ, 7 huyện ( Lục Yên huyện lỵ là Yên Thế , Mù Căng Chải, Trạm Tấu, Trấn Yên huyện lỵ là Cổ Phúc, Văn Chấn huyện lỵ là Sơn Thịnh, Văn Yên huyện lỵ là Mậu A, Yên Bình ( huyện lỵ là Yên Bình và thị trấn Thác Bà ); với 159 xã , 11 phường và 10 thị trấn ( 6 thị trấn huyện , 3 thị trấn nông trường là NT Liên Sơn, NT Nghĩa Lộ và NT trần Phú , 1 thị trấn công nghiệp ). Hai huyện diện tích lớn nhất là Văn Yên ( 1388.8 km2 ) và Văn Chấn ( 1223.9 km2 ); hai huyện nhỏ nhất là Trấn Yên ( 690.7 km2 ) và Trạm Tấu ( 742.0 km 2 ) . Dân số năm 1999 là 682 171 người , so với năm 1991 lúc mới tái lập tỉnh tăng thêm được 86 059 người. Năm 2008 là 750 200; 372 000 năm và 378 200 nữ. Như vây cuối năm 2013, dân số Yên Bái có lẽ đã đến gần 800 000 .
Thành phần, quy mô các tộc dân Yên Bái
Yên Bái là địa bàn cư trú từ lâu đời của 31 tộc dân anh em, trong số 54 tộc dân cả nước Mặc Đăng kể ra năm 2000 ,theo tài liệu của Viện Dân tôc học V N . Về quy mô dân số, năm 2000, có 7 tộc dân với số dân mỗi tộc dân trên 10 000 người : Kinh, Tày, Dao - Mán, H’Mong - Mèo, Thái, Mường, Nùng. 2 tộc dân có từ 2000 - 5000; 3 tộc dân có từ 500 - 2000 người. Tổng số dân của 19 tộc dân còn lại không quá 1000 nguời. Đông nhất là người Kinh, chiếm năm đó 53% dân số cả tỉnh . Tập trung chủ yếu ở thị xã Yên Bái ( 96.3 % tởng số dân thị xã), Nghĩa Lộ ,Trấn Yên( 77.5 % ), Yên Bình ( 62.2 % ), Văn Yên ( 60% ), Văn Chấn ( 42 % ) và một số tương đối nhỏ ở Lục Yên ( 21 % ), Trạm Tấu ( 7.5 % ,Mù Căng Chải ( 4 % ).
Người Tày , thời Pháp thuộc cũng gọi là Thổ( từ đọan này đến đọan người Nùng … Lục Yên - Yên Bình phần lớn là chiếu theo Lê Thành Khôi, Việt Nam Văn hóa và Môi trường - Lê Hửu Mục và Thái Công Tụng, Việt Học xuất bản ở Ca Li , Hoa kỳ năm 2012 ) nay chiếm 17.6 % dân số tỉnh, cư trú nhiều ở Lục Yên ( chiếm 53 % dân số tòan huyện ), một ít ở các huyện Trấn Yên, Yên Bình, Văn Yên và Văn Chấn. Tuy răng năm 2009 , Mặc Đăng l.ai xếp người thỏ vào nhóm Thanh Hóa - Nghệ Tỉnh vào nhóm Việt - Mường và người Tày đông nhất ở Cao Băng , thuộc nhóm Tày - Thái Tộc dân Tày và Thổ ( ? ) tràn qua VN ở vùng Đông Bắc vào cư trú ở các tỉnh Cao Băng Lạng Sơn và Bắc Kạn. Năm 1999, tổng số tộc dân Tày ở VN đã lên đến 1 478 000 người , còn đông hơn cả tộc dân Thái năm đó chỉ là 1 329 000 . Ảnh hưởng Kinh trên tộc dân Tày không những khiến cho người Tày thay đổi hòan tòan y phục địa phương mà ngay cả sửa đổi chế độ xã hội kẻ từ thời đại nhà Mạc gần 100 năm ( 1752 - 1677 ) ở Cao Bằng. Áo quần tộc dân Tày, tuy phỏng theo cắt xén kiểu Việt- Kinh, nhưng luôn luôn màu xanh đậm, thay vì màu nâu ( màu củ nâu ? ). Phụ nữ Tày còn trang sức nhiều kiềng xuyến ... bạc làm dáng , có mục đích yêu thuật- cám dỗ hay tích trữ làm giàu ? .
Nguời Dao , trước đây gọi là Mán , chiếm 9.3 % dân số tỉnh, trong đo 35% sinh sống ở Văn Yên, một ít ở Lục Yên , Yên Bình, Văn Chấn, Trấn Yên.Trong thực tế, người Dao ( tên Tàu gọi là Yao, còn sinh sống nhiều ở các tỉnh Trung Quốc Vân Nam, Quảng Tây, Quế Châu vàQuảng Đông ) Yên Bái, trong tổng số ở VN nay là 621 000 , đã tràn xuống Bắc Bộ VN từ thế kỷ thứ 16, chia ra làm 4 nhóm theo màu áo y phục hay mủ đội phụ nữ là Dao Đỏ ( Dao Sừng hay Dao Đại Bản ) , Dao Quần Chẹt ( Dao Nga Hòang , Dao Sơn Đầu ), Dao Quần Trắng và Dao Tiền, Làn Tuyển ( Dao Tuyển ?) .
Người H’ Mông- Mèo chiếm 8.1 % dân số tỉnh, tập trung ở vùng cao phía Tây ( 91% dân số Mù Căng Chải , 75 % dân số Trạm Tấu). Người H’ Mông có tên là Mèo- Miêu theo Hán tự, vì leo cao rất giỏi . Nguyên quán là các tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam ( Miaozi- Miêu tộc ), người Mèo di cư xuống Bắc Bộ từ đầu thế kỷ thứ 19 , đuổi người Thái và người Mán, để lên cao quá cao độ 900m . Tưởng cũng nên nhắc qua lài tỉnh Quế ( Quí ) Châu , một tỉnh các tộc dân Miêu -Mèo bị nhà Thanh thời vua Càn Long tàn phá và họ phải tràn qua Bắc Việt sinh sông ? Du mục sau đó, chuyễn họ đến các giải núi Trường Sơn, không xa mấy đèo Lao Bảo - Quảng Trị. Tộc dân Mèo nay đến 788 000 người ở các tỉnh Lai Châu , Hà Giang , Sơn La , Lào Cai , Yên Bái. Họ cũng không có chữ viết riêng biệt . Các bộ tộc Mèo khác biệt nhau,chia thành Mèo trắng, đen, đỏ, cắm hoa, sừng... vì cách trang điểm phụ nữ Mèo, lạ nhất là đội mũ khăn vòng lớn hào quang , áo - váy xếp theo lối in hoa văn ( bôi sáp vào nơi không nhuộm ) theo những hình vẽ hình học có đồ thêu sặc sở . Người Thái chiếm 6.1% dân số, trong đó 89 % cư trú ở Văn Chấn. Đây là Thái Đen Nghĩa Lộ và Sơn La, khác với Thái Trắng Lai Châu. Vạt thân trên áo phụ nữ Thái Đen màu đen hay xanh thẩm, một thắt lưng và và một khăn đầu cùng màu ; thắt lưng Thái Đen không đóng bằng các đĩa bạc hình vuông như Thái Trắng.
Người Mường chiếm 1.9 % dân số, phân bố ở các huyện phía tây của tỉnh.Tộc dân Mường ở Việt Nam nay đến 1 138 000, sinh sống ỏ phía Nam sông Hồng từ Nghĩa Lộ đến sông Gianh ( Quảng Bình, miền Bắc Trung Bộ ), dọc theo bờ biên các châu thổ đến cao độ 300m . Người Mường là tộc dân gần gủi nhất với tộc dân Việt - Kinh về ngôn ngữ, nhân chủng ,tộc dân và sơ sử - protohistory .Nhưng trong khi tộc dân Kinh đã có xã htôn tự trị từ lâu , tộc dân Mường vẫn duy trì chế độ lảnh chúa - seigneur, tương tự như các tộc dân Thái , chủ đất đai nhưng phải phân chia cho các dân làng bản. Các lảnh chúa Mường có tên là quan lang, thổ lang hay thổ ti . Cải cách điền địa ở miền Bắc đã hủy bỏ quyền đất đai các quan lang cũng như các đặc quyền quan làng , lảnh chúa.
Ngườì Nùng chiếm 1.9% dân số, chủ yếu ở Lục Yên, Yên Bình. Sau năm 1954 , ngườii Nùng di cư vào Tây Nguyên như ở Tùng Nghĩa Lâm Đồng - Tuyên Đức , ở Phan Rí - Bình Thuận và ở Cà Mâu - Cái Nước , Đầm Dơi … Y phục phụ nữ Nùng còn giữ nhiều đặc điểm người Hoa hơn là nguời Việt ?
Theo độ cao, vùng thấp người Kinh,Tày, Nùng, Mường, Thái cư trú cộng đồng thành các làng bản dân cư trù mật. Ngược lại các sườn núi hay núi cao là địa bàn sinh sống của người Dao, người H’ Mông dân cư thưa thớt. Về mức đô thị hóa năm 1999, dân thành thị Yên Bái chiếm 19.8% dân số cả tỉnh. Hai thị xã là nơi có tỉ lệ dân thành thị cao nhất ( Nghĩa Lộ 100% , Yên Bái 84.1 % ). Hai huyện có tỉ lệ dân thành thị thấp nhất là Trạm Tấu ( 9.6% ) và Mù Căng Chải ( 5.1% ).
Lần các trang sử cũ
Từ các mùa khai quật năm 1963- 64 , các nhà khảo cổ Việt Nam và Đông Đức đã phát hiện trong lớp trầm tích màu vàng ở Hang Hùm 4 răng người hóa thạch, gồm 2 răng hàm dưới , 2 răng Hàm trên. Hang Hùm năm ở chân dãy núi đá vôi huyện Lục Yên nay thuộc tỉnh Yên Bái ( trước đây là tỉnh Hoàng Liên Sơn ) . Những chiếc răng này tương đối lớn hơn răng nguời Thẩm Ồm huyện Qùy Châu , Nghệ An . Đáng chú ý là những chiếc răng Hang Hùm cùng thời với người Neanderthal, nhưng lại không mang những đặc điểm của của người Neanderthal mà có nhiều yếu tố của người không ngoan Homo sapiens. Niên đại người cổ Hang Hùm có thể vào hậu kỳ Pleistocene, cách đây từ 8 vạn năm đến 14 vạn năm. Sau đó lại đào quật được một chum lớn bằng đồng thau chứa xương một cô gái chừng sáu tuổi , cũng ở Hang Hùm Lục Yên Chứng tỏ Yên Bái đã có người cư trú cách đây 8000 năm. Văn minh sông Hồng này đạt đỉnh cao ở giai đọan Đông Sơn , khi vắng mặt các công cụ đá và sự xuất hiện công cụ võ khí và đồ dùng bằng đồng kích thước lớn, hoa văn độc đáo , tiêu biểu là các trống đồng, thạp đồng, rìu xéo v.v… Thạp đồng Đào Thịnh ( huyện Trấn Yên ) chạm khắc hoa văn độc đáo và thạp đồng Hợp Minh người Việt Cỗ là những di vật vô giá trong kho tàng văn hóa tỉnh Yên Bái nói riêng và cả nước nói chung .Phương pháp phóng xạ C14 xác nhận quá trình phát triễn này diễn ra từ thế kỷ thứ 3 trước công nguyên đến buổi đầu công nguyên, hình thành nhà nước đầu tiên là nước Văn Lang của các vua Hùng. Di tích từ sơ kỳ thời đại đồng thau cũng được phát hiện ở nền văn mình , văn hóa Sa Hùynh ở vùng đồi gò trung du và cồn cát ven biển miền Trung. Niên đại C14 ở Long Thạnh , Phú Hòa cho thấy là văn minh Sa Hùynh phát triễn từ đầu thiên niên 2 đến 1, 2 thế kỷ trước công nguyên .
Thời nhà Lý, Lý Thường Kiệt ( 1019- 1105) , huy động quân binh các tộc dân do Phó tướng Tôn Đản và Thân Cảnh Phúc ... dẫn đầu đánh thẳng vào quân Tống , chiếm thành Ung Châu . ( Nam Ninh nhgày nay ) . Năm 1285, Trần Nhật Duật, con thứ sáu của vua Trần Thái Tông, trấn thủ bộ Tuyên Quang rút lui chiến lược khỏi trại Thu Vật ( hồ Thác Bà , tỉnh Yên Bái ngày nay ) khi quân Nguyên tiến đánh trại này và sau đó lập công lớn, đánh tan giặc Nguyên ở trận Hàm Tử . Việt Nam dần dần bị Pháp đô hộ từ năm 1859 đến năm 1883, sau khi đô đốc Rigault de Genouilly năm 1958 đem hạm đội liên quân Pháp - Y Pha Nho tấn công Đà Nẳng và năm 1959 chiếm Gia Định Thành và năm 1861 buộc triều đình Việt Nam ( tên nước nhà 3 Kỳ thống nhất vua Gia Long đặt ra năm 1802) phải ký hòa ước nhượng cho Pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ và năm 1867 Pháp chiếm luôn 3 tỉnh miền Tây và gọi Nam Kỳ là thuộc địa- colonie Pháp . Ở miền Bắc, năm 1882 , đại tá Henri Rivìère chiếm thành Hà Nội khiến vua Từ Đức phải cầu cứu Tàu giải nguy . Thật tế thì Puginier giám mục Tây Đàng Ngoài đã gửi mật báo về Paris là vua Tự. Đức đang có ý định nhờ Trung Hoa can thiệp vào Đại Nam ( Theo Đại Nam Thực lục Chính biên, Đề Đốc nhà Thanh, tổng đốc Quảng Tây Phùng Tứ Tài đã xâm nhập lảnh thổ Đại Nam từ tháng giêng 1870 để đánh bọn phỉ Lương thiên Tích và Hòang Sùng Anh , tàn dư của Ngô Côn dư dảng Thái Bình Thiên Quốc - Thiên Địa Hội và tháng 2 năm 1870 sứ đòan sang Thanh Trung Hoa do Lê Tuấn , Nguyễn Tư Giản và Hòang Tịnh đã trở về Huế ) và Trung Hoa đã mật ước đưa 10 000 quân qua giúp . Sử Việt chép là Giặc cờ Vàng của Hòang Sùng Anh hùng cứ ở vùng Tuyên Quang ( khi đó Yên Bái thuộc Tuyên Quang) - Thái Nguyên. Các năm 1882 -1885, là chiến tranh Pháp- Hoa ( Tàu ) và chiến dịch Pháp chiếm trọn Bắc Kỳ. Sau khi vua Tự Đức mất năm 1883 , triều Đình Huế hổn loạn, thay đổi ngôi vua nhiều lần, chia ra ba phe chủ Hòa, chủ Chiến hay là thân Pháp . Các năm 1883 -1885, Pháp buộc chánh phủ Đại Nam ( tên Việt Nam lúc nước nhà mở rộng nhất thời vua Minh Mạng ) ký các hòa ước chấp nhận Pháo bảo hộ - protectorats Bắc kỳ và Trung Kỳ .
Các năm 1885 - 1897, Yên Bái và nhiều tỉnh miền Bắc ủng hộ phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết lảnh đạo, cố đưa vua Hàm Nghi lên ngôi một nước độc lập. Năm 1883, vua Hàm Nghi bị bắt và bị đày sang Algerie, một thuộc địa Pháp ở Bắc Phi Châu, nhưng phong trào Cần Vương vẫn tiếp tục, cho đến khi Phan đình Phùng mất, năm 1895. Từ các năm 1897 đến năm 1902, tòan quyền Pháp Paul Doumer ép buộc thi hành bảo hộ trực tiếp ở miền Bắc và đặt ra nhiều thuế nặng nề, như thuế muối, thuế rượu và thuốc phiện …. Phong trào du kích chống Pháp của Hòang Hoa Thám ( Đề Thám) khởi nghĩa và lảnh đạo năm 1892 ở Yên Thế - Cầu Gỏ, tỉnh Bắc Giang , kế cận tỉnh Bắc Ninh , không phái là Yên Thế ? - Lục Yên, Yên Bái ( ? 0 đã bị Pháp , dùng đủ thủ đọan, tập trung lực lượng đàn áp nặng nề các năm 1893- 1895, nhưng đã đề cập nhiều ở bài khảo luận tỉnh Bắc Giang, nên không nói thêm nữa . Đầu thế kỷ thứ 20, ở Bắc Kỳ cuộc kháng cự của các Văn Thân , nhà Nho Cần Vương chấm dứt, nhưng nhiều hình thức mới tinh thần quốc gia khỏi nghĩa chống Pháp bừng dậy. Tỉ như Quang Phục Hội thành lập năm 1903 , Phong trào Đông Du ( Phan Bội Châu ) năm 1905, Phong trào Duy Tân ( Phan Châu Trinh ) và Đông Kinh Nghĩa Thục. . Năm 1907 là vua Duy Tân nổi dậy, bị Pháp truất phế và đày sang Phi Châu . Các năm 1920 - 1940, các đảng chánh trị cách mạng xuất hiện. Đáng kể ra nhất vào thời điểm này là việc thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng thập niên 1920, họat động ngầm ở nhiều tỉnh, có ý định lật đổ ,chánh quyền bảo hộ và thuộc địa và đòi Pháp trả lại độc lập cho nước nhà . Ở Yên Bái ngày 9 tháng 2 năm 1930, một phần trung đòan số 4 lính tập Bắc Kỳ nổi lọan, giết chết nhiều sĩ quan chỉ huy Pháp, nhưng lại bị các lính tập trung thành với Pháp dẹp tan ngay. Pháp dùng máy bay thả bom, kể cả bom napalm, dẹp lọan . Sau đó Pháp đưa lên đọan đầu đài hay đày biệt xứ ( đày sang tận Guyane - Nam Mỹ châu Pháp ? ) nhiều lính tập và dân sự Việt Nam tham gia nổi loạn và chém đầu 16 lảnh tụ Quốc Dân Đảng, đứng đầu là Nguyễn Thái Học. Hiện nay di tích mộ Nguyễn Thái Học đã được bộ Văn Hóa xếp hạng là di tích lịch sử ngay tại thị xã Yên Bái . Thời kháng chiến chống thực dân Pháp tái xâm lăng ở khu vực Nghĩa Lộ có di tích Căng là nơi thực dân giam giữ tù chánh trị và đồn Nghĩa Lộ ghi dấu chiến thắng lớn ngày 18 tháng 19 năm 1952, góp phần vào việc giải phóng Tây Bắc. Khu vực này có suối nước nóng bản Hon và từ đây có thể thấy Suối Giàng, cao độ 1371m, với những cây chè Tuyết Sơn ( San ) cỗ thụ .
…
Địa hình, khí hậu, thủy văn
Địa hình
Yên Bái như đã nói là vùng chuyễn tiếp từ Trung du ( Phú Thọ ) lên khu vực núi cao ( Lào Cai) . Địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Nơi thấp nhất là ở xã Minh Quân, huyện Trấn Yên ( 20m ) và nơi cao nhất là đỉnh Pu Luông( 2985m ). Địa hình chủ yếu là núi non trùng điệp trên địa bàn tỉnh có 3 dãy núi lớn chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Phía Tây là dãy Hòang Liên Sơn - Pu Luông, kẹp giữa sông Hồng và sông Đà, một dãy núi trẻ, đỉnh nhọn, độ cao trung bình 1700 - 2800m, độ dốc 40o - 70 o, sườn bị cắt xẻ mạnh. Dãy núi cỗ Con Voi nằm giữa Sông Chảy và sông Hồng, cao độ trung bình 400- 1400 m, đỉnh tròn, sườn thỏai. Phía Đông là hệ thống núi đá vôi nằm giữa sông Chảy và sông Lô, độ cao trung bình 400 - 800m . Xen kẻ với núi đồi là thung lũng, bồn địa, đồng bằng giữa núi : bổn địa Mường Lò ( Văn Chấn ), Đại Phú An ( Văn Yên ), Mường Lai ( Lục Yên ) … Về mặt địa hình, Yên Bái có thể chia ra làm 2 tiểu vùng: -tiểu vùng cao, trung bình cao độ trên 600m gồm 70 xã , chiếm 67.5 % tộng diện tích tỉnh, dân cư thưa thớt, chủ yếu là các tộc dân ít người như H’mong - Mèo , Dao - Mán , Khơ Mú... Nền kinh tế tiểu vùng này chậm phát triễn, trình độ dân trí thấp, tập quán canh tác là phát nương làm rẫy, một bộ phận du canh du cư, đời sống vật chất và tinh thần gặp nhiều khó khó khăn - tiểu vùng thấp cao độ trung bình dưới 600m , chiếm 32.5% diện tích cả tỉnh; dân cư tương đối trù mật đa phần là Kinh, Tày, Nùng, Thái. Trên phương diện địa hình, Yên Bái có nhiều thuận lợi cho việc giao thông kinh tế theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, dọc thung lũng các con sông. Các mối liên hệ theo hướng Bắc Nam ( 107 km thuộc phạm vi tỉnh ) và Đông Tây ( 1 25km ) hết sức khó khăn, vì núi cao, đèo dốc.
Khí hậu
Trên cao độ 1500m, hầu như không có mùa hạ, nhiệt độ trung bình là 200C ( 680F ) và có khi hạ xuống 00 C ( 32 0 F ), vài nơi có đông giá, sương muối và tuyết rơi. Tháng chạp và tháng giêng Tây Lịch là các tháng mùa Đông . Đầu mùa Đông thường xảy ra hạn hán và cuối mùa lại dầm dề mưa phùn. Yên Bái đã được mệnh danh là trung tâm mưa phùn đất nước. Mùa hạ kéo dài từ tháng tư đến tháng 10 . Đây là thời kỳ nóng ẩm, nhiệt độ trung bình trên 250C . Tháng nóng nhất là 370 - 380 C . Mưa nhiều, thường kèm gió xóay, gây lũ quét, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống. Phân bố mưa và lượng mưa chịu tác động địa hình rỏ rệt. Lượng mưa giảm từ Đông sang Tây. Dọc theo thung lũng sông Hồng , mưa giảm dần từ Đông Nam lên Tây Bắc. Do ảnh hưởng gió và địa hình dãy Hòang Liên Sơn, nên vào mùa hạ sườn Tây mưa ít hơn sườn Đông và phía Tây có gió Lào. Tiểu vùng khí hậu phía Đông , ranh giới là dãy Hòang Liên Sơn. Đặc trưng là vùng chịụ ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, mưa nhiều 1800mm -2000 mm một năm. Lượng mưa khu vực Nam Trấn Yên, Văn Yên, thị xã Yên Bái, Ba Khe thuộc thung lũng sông Hồng là 1800- 2200mm ( nơi mưa phùn nhiều nhất tỉnh ). Khu vực Lục Yên - Yên Bình cao độ dưới 300m, thuộc thung lũng sông Chảy, ranh giới là dãy Con Voi, có hồ Thác Bà nên khí hậu điều hòa hơn. Tiểu vùng khí hậu phía Tây, gồm các huyện thị Mù Căng Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, thị xã Nghĩa Lộ, độ cao trung bình trên 700- 800m, nhưng lại có gió Tây Nam nóng và khô thổi tới, nên nét tiêu biểu là nắng nhiều, mưa tương đối ít và khí hậu có tính chất cận nhiệt: khu vực Mù Căng Chải, cao độ trung bình 900m, có lượng mưa 1800 - 2000mm ; khu vực Tây Nam Văn Chấn cao độ trung bình 800m , lượng mưa trung bình là 1800mm, phía Bắc mưa nhiều, phía Nam lại mưa ít nhất tỉnh; khu vực Văn Chấn-Tú Lệ cao độ trung bình 250- 400m, lượng mưa it hơn .
Thủy Văn
1- Mạng lưới sông ngòi Yên Bái,tương đối phong phú, chảy trên lảnh thổ tỉnh nhà là hai hệ thống sông lớn: sông Hồng ( có đọan còn gọi là sông Thao ) và sông Chảy và hàng trăm ngòi, suối lớn nhỏ khác nhau. Mật độ trung bình là 1.15 km/ km2 . Sông Hồng bắt nguồn từ Ngụy Sơn -Trung Quốc ở độ cao 1766m, chảy qua Lào Cai, Yên Bái, thủ đô Hà Nội …. và đổ vào Biển Đông ở cửa Ba Lạt. Ở Trung Quốc sông Hồng, có tên là Yuan Jiang hay YuanKiang, theo Hán Nôm là Nguyên Giang hay Nhị Hà. Chiều dài tổng cọng là 1160 km, trong đó phần chảy trên đất Việt Nam dài 556 km. Đọan chảy qua Yên Bái dài khỏang 100km với độ dốc là 0.23m/1 km. Nhắc lại, theo Thái Công Tụng ( Vietnamologica, 2005 ), sông Hồng chỉ có chưa đến phân nữa lưu vực trong nước ( 61 300 km2 ở trong nước so với tòan thể lưu vực là 140 000 km2 ) và lưu luợng cũng chỉ chiếm 68 % tổng số. Lưu vực sông Mê Kông- Cửu Long còn ít hơn nữa, chỉ chiếm 71 000 km2 trong tổng số 795 000 km2 , chiều dài chảy trong nước cũng chỉ 230 km, 5% tổng chiều dài Mê Kông. Sông dài nhất chảy trong nước nhà là sông Đồng Nai 635 km , không phải sông Hồng hay sông Mê Kông! Ở Trung Quốc, sông Mê kông - Cửu Long có tên là Langcangjiang, Lants’ang kiang- Lạn Thương Giang.
Sông Chảy khởi nguồn từ dãy núi Tây Côn Lĩnh , giữa các thành phố Ôn Sơn - Wen San và Mã Quan - Maguan tỉnh Vân Nam cao 2419m, chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, song song với sông Hồng , qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái và Phú Thọ. Dòng sông nhỏ, sâu chảy xiết . Môđun dòng chảy bình quân là 30.5 lít/giây /km2 . Bên trái sông Chảy là hai nhánh phụ lưu sông Lô và sông Gầm, nhập nhau ở gần thị xã Tuyên Quang và gặp sông Chảy ở gần Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ. Hạ lưu sông Chảy có hồ và nhà máy thủy điện Thác Bà. Yên Bái còn nhiều ngòi, suối. Tiêu biểu nhất là Ngòi Thia, bắt nguồn từ núi Pusa Phìn ( 2874m ) thuộc huyện Trạm Tấu, chảy qua qua Văn Chấn, Văn Yên rồi đổ vào sông Hồng. Sản phẩm bồi đắp là hai cánh đồng tương đối rộng Mường Lò ( Văn Chấn ) và Đại Phú An ( Văn Yên). Ngòi Bút bắt nguồn từ núi Khao Kim cao 2007m, chảy qua Tú Lệ ( Văn Yên ). Ngòi Lâu từ núi Bo Co cao 1639m, qua Hồng Ca, Trấn Yên. Còn phải kể ra Ngòi Đôn, Ngòi Lũng Co ( Lục Yên) …. Nhìn chung các ngòi,suối ở Yên Bái đều bắt nguồn từ núi, chứa nguồn thủy năng phong phú..
2- Bên cạnh hệ thống sông suối, Yên Bái có 20 913 ha mặt nước hồ, ao . Đáng kể nhất là hồ thủy điện Thác Bà , nằm trong lưu vực sông Chảy ,thuộc huyện Yên Bình và một phần huyện Lục Yên .Hồ khởi công năm 1962 , hoàn thành năm 1970 . Mục đích chánh là phục vụ nhà máy thủy điện với công xuất 108 000 kw . Chiều dài hồ là 80km, rộng 8- 12 km có chỗ sâu tới 42m , dung tích là 2.9 tỉ mét khối . Ở mức nước thiết kế cao nhất, hồ có diện tích 23 400 ha , trong đó 19 050 ha mặt nước và 4 350 ha là diện tích của 1331 đảo trong hồ. Điểm đáng nêu thêm là hồ Thác Bà đã thay đổi khi hậu quanh vùng, từ nóng bức chuyễn qua điều hòa, mát mẽ. Ngoài ra còn có Đầm Ván Hội ( Trấn Yên ) và một số hồ chứa nước khác.
3- Yên Bái còn có nguồn nước dưới đất phong phú, phân bố đều, ở độ sâu 20 - 200m trong các nham trầm tích bở rời Đệ Tứ. Nhưng tài nguyên này chưa được nghiên cứu cặn kẻ . Tỉnh nhà có nguồn nước khóang nóng, phân bố ở phía Tây, thuộc các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu ( đới Tú Lệ ). Tổng khóang hóa là 1-5g/lít , nhiệt độ trên 400 C, có thể khai thác làm nước suối uống và chữa bệnh.
Tài nyuyên đất đai , rừng , động vật, khóang sản
- Đất dai
Yên Bái gồm 8 nhóm đất chánh:
- nhóm đất phù sa - eutric và dystric Fluvisols, diện tích 9171.16 ha ( 1, 3% diện tích tỉnh ), phân bố ở các khu vực có sông suối lớn (Sông Hồng, sông Chảy …) , có nơi thành những bồn địa lớn như Mường Lò ( Văn Chấn ) , Lục Yên. Nhóm đất này thích hợp cho trồng cây lương thực lúa - bắp ( ngô ) hay cây công nghiệp ngắn ngày ( mía, đậu phụng - lạc , đậu nành - đổ tương …) .
- nhóm đất glây ( gley )- gleyic Acrisols, diện tích 4227.97 ha ( 0.61 % ) tập trung ở các vùng trũng, thấp, thích hợp cho canh tác lúa nước, nhưng cần bón thêm lân và vôi .
- nhóm đất đen- calcic Luvisol , diện tích 902.51 ha, hình thành trên các thung lũng và ven núi đá vôi, có khả năng trồng sắn - khoai mì , cây công nghiệp ngắn ngày và lúa nước ở nơi trũng
- nhóm đất xám- - haplic Acrisols chiếm ưu thế tuyệt đối, diện tich 566 953.69 ha ( 82.37 % ) ở độ cao dưới 1800m, tập trung chủ yếu ở Văn Chấn, Văn Yên, Mù Căng Chải. Thích hợp trồng cây công nghiệp dài ngày chè - trà và cây ăn trái - ăn quả, nếu độ dốc dưới 25 %
- nhóm đất đỏ - ferralic Acrisols ? , diện tích 12 104.19 ha, phân bố ở các vùng đá vôi, mác ma ba dờ, thuộc các huyện Lục Yên , Trạm Tấu , Văn Chấn , thích hợp trồng một số cây công nghiệp dài ngày, cây ăn trái.
- nhóm đất mùn alit- humic Alisols, ở độ cao hơn 1800m, diện tích 55 078 .28 ha (8.0 % ) , tập trung ở các huyện vùng cao ( Văn Chấn, Mù Căng Chải ,Trạm Tấu ), chủ yếu là trồng rừng phòng hộ.
- nhóm đất alit vàng hay đỏ vàng- ferralic Arrisols tầng đất mỏng, diện tích 1824 .674 ha ( 0. 2%) thuộc các huyện Lục Yên, Văn Yên và Văn Chấn .
- Các nhóm đất khác còn lại , diện tích là 38 080.61 ha ( 5.54 % )
Vì Yên Bái là một tỉnh núi non, diện tích có độ đốc vượt quá 25 0 chiếm 55.6 % tổng diện tích nên đất nông nghiệp ít. Năm 2000, số đất đai chưa sử dụng còn rất lớn, khỏang hơn 330 000 ha , chiếm 48 % tổng diện tích, trong số này 305 620 ha có khả năng lâm nghiệp và chỉ 1972 ha có khả năng nông nghiệp.
Rừng ; các lòai cây cỏ và động vật
Rừng là tài nguyên gắn bó trực tiếp với cuộc sống đồng bào đông đảo các tộc dân Yên Bái từ bao đời nay . Trước kia, Yên Bái là tỉnh tiềm năng rất lớn về rừng. Nhưng nay rừng đã suy giảm nghiêm trọng . Chỉ tính từ năm 1978 đến năm 1994 , diện tích rừng tự nhiên giảm tới 60% ( 183 956 ha ) . Trung bình mỗi năm giảm đi 13 139 ha, khỏang 1.5 lần diện tích trồng lại rừng mới. Trong những năm sau đó , tình hình có vẽ khả quan hơn. Tính đến tháng 12 năm 1999, tòan tỉnh có 258 900 ha rừng , gồm 180 400 ha rừng tự nhiên và 78 500 ha rừng trồng , độ che phủ đạt 37.6 % . Nhắc lại là thời Pháp thuộc, Việt Nam năm 1943 có 20 triệu ha rừng, bao phủ 60 % đất đai tòan quốc, nhưng năm 1993 độ che phủ chỉ còn 20 % diện tích rừng, khỏang 6.4 triệu ha hay ít hơn. Koninck chuyên viên lâm học cho Chương trình phát triễn Liên Hiệp Quốc- UNDP, năm 2002, báo cáo con số tệ hại hơn nhiều, cho rằng độ bao phủ đã xuống dưới 10 % , con số thấp nhất các nước Đông Nam Á ( theo Trần Đăng Hồng , Việt Nam Văn hóa và môi trường -2012 ) .
Đối với các lọai rừng trử lượng gỗ là 156 m3 cho rừng trung bình, 81m 3 cho rừng nghèo, 34 m3 cho rừng tái sinh và 67 m3 cho rừng hổn giao. Trử lượng rừng nứa thuần là 5143 cây/ha và rừng vầu thuần là 29876 cây/ha. Rừng của Yên Bái còn nhiều loại gỗ quý ( đinh, lim , sến , táu , lát , pơ mu …). Trử lượng gỗ của rừng tự nhiên chủ yếu tập trung ở các huyện Lục Yên , Văn Yên, Trấn Yên, Văn Chấn, Trạm Tấu. Rừng gỗ trồng phần lớn các vùng giấy sợi, rừng phòng hộ đầu nguồn. Trong rừng,giới động vật cũng khá phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, động vật dưới tán rừng bị suy giảm do việc săn bắn bừa bải.
Trên phương diện đa dạng sinh học , Yên Bái thuộc vùng rừng núi Hòang Liên Sơn , một trong 4 vùng chánh đặc hửu địa phương Việt Nam . Ba vùng kia là vùng rừng ẩm uớt Bắc Trung Bộ( vùng Ba Vì - núi Tản Viên từ Hòa Bình đến Nghệ An, vùng núi đá vôi Pu Luông - Cúc Phương.. ) , vùng núi Ngọc Linh ở Tây Nguyên và Cao nguyên Lâm viên miền Nam Trung Bộ. Nhắc lại là vùng Hòang Liên Sơn chứa dỉnh núi cao nhất nước nhà là đỉnh Phăng Xi Păng- FansiPan cao 3143m ở biên giới hai tỉnh Lào Cai ( gần thị trấn Sa Pa ) và Lai Châu ngày nay và các đỉnh núi cao khác là Pu Ta Leng 3096m cũng ở biên giới hai tỉnh này nhưng gần thị trấn Phong Thỏ - Lai Châu hơn , đỉnh Lang Cung cao 2913m ở biên giới hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía Bắc Tú Lệ, thuộc huyện Mù Căng Chải. Đặc điểm vùng núi rừng Hoàng Liên Sơn là ở các chân núi tìm thấy nhiều lòai cây cỏ nhiệt đới, sườn núi trung tâm là những lòai bán ôn đới và trên cao là các lòai cây cỏ ôn đới. Đã kiểm kê ở Hòang Liên Sơn 2000 lòai cây cỏ, trong đó 25 % là đặc hửu địa phương, 68 lòai động vật có vú, 61 lòai bò sát, 553 lòai côn trùng - sâu bọ và 347 lòai chim. Đa dạng này đã kể ra ở bài về tỉnh Bắc Kạn và một phần nào các bài tỉnh Tuyên Quang, Hà Giang …rồi, cho nên không nói thêm ở đây nữa .
Khoáng sản
Yên Bái có nhiều đới nham tướng, giới hạn bởi các đứt gãy sâu sông Hồng, sông Đà, sông Chảy, trải qua các chu kỳ tạo sơn lớn , kèm theo họat động mác ma xâm nhập và phún xuất mạnh. Nhờ vậy, tài nguyên khóang sản có nhiều mỏ nội sinh và ngọai sinh. Tuy nhiên các mỏ thuộc lọai nhỏ, không có khả năng khai thác quy mô lớn. Năm 2000 phát hiên 153 điểm mỏ thộc các nhóm khỏang sản sau đây :
- 18 điểm mỏ nhóm năng lượng than có trữ lượng 78 0 000 tấn , than nâu -than lữa dài phân bố ven sông Hồng , sông Chảy, than anthraxít ở Văn Chấn …
- 42 điểm mỏ nhóm vật liệu xây dựng : đà vôi , đá ốp lát , sét , cát, sỏi….
- 39 điểm mỏ khóang chất công nghiệp, từ nguyên liệu làm phân bón đến nguyên liệu kỷ thuật . Đáng chú ý là đá qúy và bán đá quý, chủ yếu ở Lục Yên
- 41 điểm mỏ kim lọai lòai đen ( sắt , lọai màu ( đồng, chì, kẻm đến vàng), nhưng trữ lượng nhỏ , chỉ có ý nghĩa địa phương
- 13 điểm nước khóang, chủ yếu ở địa bàn các huyện Văn Chấn, Trạm Tấu
Phát triễn kinh tế qua hai thị xã, Nghĩa lộ và Yên Bái đặc biệt là thị xả tinh lỵ Yên Bái.
Trong giai đọan 1991-1995, mức tăng trưởng trung bình của Yên Bái là 7.5 % một năm. Đứng đầu là khu vực III - dịch vụ có mức tăng trưởng là 9. 35 % , rồi đến khu vực II - công nghiệp và xây dựng là 8.67 %. Cuối cùng là khu vực I - nông lâm ngư nghiệp 5.25 % . Vào giai đọan 1996- 2000, một số ngành kinh tế vẫn giữ được mức tăng trưởng khá , nhưng ngành công nghiệp - xây dựng có xu hướng giảm. Khu vực III tăng 13,56 % , khu vực II chỉ còn 8.4 % và khu vực I đạt 5.34 % . Đời sống dân gian có phần được cải thiện . Thu nhập bình quân theo đầu người theo giá 2000 đạt 2 .398 triệu ĐVN, gấp 4 lần năm 1990. Cơ cấu kinh tế thập kỷ vừa qua có một sự chuyễn dịch theo xu hướng giảm tỉ trọng nông lâm ngư nghiệp, tăng tỉ trọng dịch vụ và công nghiệp. Nhưng chuyễn dịch chậm và không đều . Năm 1999. theo thống kê , khu vực I vẫn giữ vai trò chủ đạo chiếm 48.7 % GDP tỉnh nhà . Công nghiệp và xây dựng còn nhỏ bé , chỉ chiếm 19.4 % , nhưng khu vực dịch vụ đã chiếm 31.9 % GDP Yên Bái. Tốc độ chuyễn dịch làm nổi bật vai trò trung tâm của hai thị xã Yên Bái và Nghĩa Lộ, hạt nhân thúc đẩy phát triễn kinh tế xã hội . Năm 1999, dân số thị xã Yên Bái là 73 626 ,trong đó 61 912 là dân thành thị và 11 714 là dân nông thôn. Năm 2003, dân số thị xã Yên Bái là 78 016 nguời. Theo tỉ lệ gia tăng này năm 2012 , thị xã Yên Bái đã có gần 90 000 người. Thị xã Nghĩa Lộ, năm 1999, có 18 414 người, tăng lên đến 25 256 người năm 2003, và có lẽ gần đến 40 000 người năm 2012- 13. Nền kinh tế Yên Bái có điểm xuất phát thấp, sức thu hút vốn đầu tư trong và ngòai nước còn hạn chế , số lao động thiếu việc làm còn nhiều ( năm 1999, số người chưa có việclàm và thiếu việc làm thường xuyên. Yên Bái chiếm 11.49 % nguồn lao động tỉnh trong tổng số người trong độ tuổi và tham gia họat động năm đó ước lượng là 301 938 người ) , trang bị cũ và lạc hậu, đời sống nhân dân vùng sâu, vùng xa còn quá nhiều khó khăn ( tỉ lệ hộ đói nghèo năm 1999 là 14 % ).
Những năm gần đây, thị xã Yên Bái được xem như là một lực lượng lảnh đạo phát triễn Yên Bái. Thị xã tỉnh lỵ đã duy trì một mức tăng trưởng cao, hàng năm lên đến 14.96 %. Đặc biệt năm 2012, thị xã đạt mức tăng trưởng kỷ lục là 16.8 % . Cơ cấu kinh tế đã chuyễn dịch dương tính, với tỉ trọng khu vực II là 47%, khu vực III là 49 % và khu vực I, Nông lâm ngư chỉ còn 3.3 % . Lợi tức ngân sách tăng 20-25 % một năm và xuất khẩu lên đến 20 triệu đô la Mỹ . Lợi tức mỗi đầu người của dân thị xã là 40 triệu đồng ĐVN ( gần 2000 đô la Mỷ ? ) Tổng số tư bản đầu tư thời gian 2006- 2010 đạt trên 5 000 tỉ ĐVN . Tuy Yên Bái được xem là một trong số trung tâm phụ vùng của 14 tỉnh núi non miền Bắc, nhưng Yên Bái còn phải đối đầu với nhiều thách thức khó khăn thu hút đầu tư phát triễn kinh tế xã hội. Nhưng nhờ xa lộ Cao Tốc Xuyên Á - Trans Asia Ex;press nối Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai - Vân Nam Trung Quốc, dự trù hòan tất năm 2014? ( xem chi tiết về Cao Tốc này ,vay 1069 triệu đô la Mỹ của ADB và đường xe lửa Việt Trung - Quốc ở bài biên khảo về Lào Cai ngày) , sẽ nối liền Yên Bái với các trung tâm chánh phát trien kinh tế Bắc Việt đóng vai trò cử ngõ đề xướng buôn bán với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á - ASEAN, rút ngắn khỏang cách từ Yên Bái đến Hà Nội , chỉ còn 125 km , nghĩa là 1.5 giờ xe ô tô. Đầu tháng 3 năm 2014, thị xã Yên Bái đón mời các nhà đầu tư nội địa và ngọai quốc vào 17 dự án các ngành tơ sợi, da , và giày dép , cơ khí , điện tử hóa học , ráp xe hơi , chế biến các sản phẩm lâm , nông và xây dựng những phức tạp hạ tầng cơ sở công nghệ và du lịch. Ngòai việc làm dễ dàng , mau lẹ hơn các thủ tục hành chánh đầu tư , Thị xã Yên Bái cố tâm phát triễn những công viên công nghệ thiết lập một qủy đất sạch - clean land fund? qaủyqw và những hệ thống hạ tầng cơ sở thích nghi như điện , nước đuờng phố, bảo vệ môi sinh .
Các công viên công nghệ Yên Bái
Đầu năm 2014, tỉnh Yên Bái đ ã thiết lập 5 vùng công nghệ,diện tích hơn 1000 ha và 19 cụm- clusters công nghệ và thủ công diện tích gần 1500 ha. Đáng lưu ý là vùng công nghệ phía Nam tỉnh, một vùng công nghệ quốc gia và vùng công nghệ then chốt tỉnh nhà . Vùng công nghệ này có ưu điểm là gần sông Hồng và hồ Thác Bà ( vùng vật liệu đá vôi trắng ) , đường xe lữa quốc gia, quốc lộ 70, quốc lộ 32C và cũng gần xa lộ cao tốc Xuyên Á. Diện tích công viên công nghệ Nam là 207.8 ha. Hiện đã có 18 dự án tổng số tư bản đầu tư đăng ký là 2 000 tỉ ĐVN ( 95.2 triệu đô la ), đã được chiếm hửu trên 30 % các dự án đầu tư, tụ điểm vào sản xuất vật liệu xây dựng , chế biến khóang sản , sản phẩm nông lâm và sản xuất hàng hóa tiêu thụ. Tổng số Đầu tư Trực tiếp Ngọai quốc- FDI là 21 dự án; số vốn lên đến 109.6 triệu đô la . Năm 2013, tỉnh Yên Bái đã cấp môn bài cho 2 dự án FDI lập các xưởng xuất khẩu áo quần, tổng số lợi tức hai hảng này là 26.18 triệu đô la, mức tăng trưởng là 20% một năm. Doanh nghiệp năm 2013 có hiệu năng tốt gồm luôn cả R. K Việt Nam Cẩm Thạch - Marble , lợi tức 15.84 triệu đô la và hảng YBB Calcium carbonat, lợi tức là 8. 67 triệu đô la. Khai thác và chế biến đá quý là một lợi thế của Yên Bái. Đá quý phân bố trên diện tích chừng 1400 km2 ở các huyện Lục Yên, Yên Bình, Trấn Yên dọc sông Chảy và tả ngạn sông Hồng. Chủ yếu là hồng hgọc -ruby và bích ngọc- sapphire, chất lượng rất tốt ở mỏ Tân Hương và mỏ Ngòi Chi ( Động Quan ). Mới đây phát hiện là đá quý fluor cannilloites từ thị trấn Duyên?,Dương - Yueng Yang , Ôn Sơn - Wen Shan tỉnh Vân Nam thật ra là từ Lục Yên, Yên Bái. Theo báo cáo Hauzenberger năm 2005, fluor cannilloites phân tích thảy đều là pargasite và pargasite xanh lục đậm liên kết với spinel đỏ từ Lục Yên
Vùng công nghệ IZ Âu Lâu ở xã Âu Lâu, thị xã Yên Bái thuộc về hệ thống công viên công nghệ quốc gia. Giai đọan đầu qui họach 120 ha và đang giải quyết vấn đề đất đai. IZ Âu Lâu là một IZ đa ngành, cho phép đầu tư vào các công nghệ sạch như công nghệ đồ da, ráp đồ điện tử, ráp xe hơi và chế tạo các phụ tùng xe gắn máy, xe mô tô . Công viên công nghệ Minh Quán, thuộc huyện Trấn Yên cũng thuộc hệ thống công viên công nghệ Quốc gia. Nằm kế cận quốc lộ 32C và xa lộ cao tốc Xuyên Á , diện tích 112 ha đón chào các đầu tư sản xuất nông nghiệp và biến chế sản phẩm lâm nghiệp. Có 2 cụm công nghệ do thị xã Yên Bái quản lý. Cụm Đầm Hồng diện tích 12 ha , đã có 14 dự án đầu từ các ngành chế biến gỗ, sản xuất vật liệu xây cất, chế biến khóang sản và công nghệ cơ khí. Tổng số tư bản đầu tư là 65 tỉ ĐVN . Cụm thứ hai ở IZ Âu Lâu, có ưu điểm là nằm trên đường tỉnh lộ, chỉ cách xa lộ cao tốc 2km. Diện tích dự trù là 79 ha . Giai đọan 1 đã được sử dụng . Cụm chờ đợi đầu tư ở các ngành sản phẩm nông lâm , tơ sợi và cơ khí. Đã có một doanh vụ đầu tư và 7 doanh vụ đăng ký đầu tư 10 ha, và hạ tầng cơ sở đã hòan tất .
Dịch vụ
Giao thông vận tải
Yên Bái là trung tâm giao thông quan trọng ở Bắc Việt .
Yên Bái nằm trên đường xe lữa ( đường sắt ) chạy lên Việt Bắc, từ thủ đô Hà Nội đến thị trấn biên giới Lào Cai và Vân Nam . Đường xe lữa cũng chạy qua các thị trấn Mậu A và Cỗ Phúc. Trước đây đọan chạy qua tỉnh gồm 10 ga , dài 94 km trên địa bàn 20 xã phường, thuộc thị trấn thị xã Yên Bái và các huyện Trấn Yên, Văn Yên, chất lượng đường vào lọai xấ , khổ hẹp 1m , tốc độ tàu chạy thấp. Đường xe lữa Việt - Trung Côn Minh - Hải Phòng, hòan thành năm 1910, dài 855 km, khúc đọan Việt Nam dài 466km . Mỹ thả 288 000 tấn bom các năm 1975 - 68 phá hại nặng nề, nhưng lại được Trung Quốc viện trợ đưa vào miền Bắc khỏang thời gian này đến 300 000 nhân công, chuyên viên sửa chửa lại mau lẹ, kể cả cầu Long Biên Hà Nội. Đặng Tiểu Bình, năm 1979, cho Việt Nam một bài học là đã dám đánh Khmer Đỏ - Kampuchia , Trung Quốc ủng hộ ( và lúc đó có luôn cả Hoa Kỳ ủnh hộ Khmer Đỏ nữa ), xua 300 000 ? quân Tàu tàn phá các tỉnh ( và 20 thị trấn ? ) biên giới Việt Trung , khiến cho đường không còn họat động và chỉ mở lại giao thông năm 1993. N ăm 2004, Việt Nam vay 160 triệu đô la nhẹ lãi của Ngân Hàng Phát triễn Á Châu- ADB ( thật ra là vay của Pháp ) xây dựng, điện hóa, khổ đường rộng... đường xe lữa cao tốc Yên Viên Hà Nội - Lào Cai, hòan tất năm 2009 .Đọan Yên Viên - Cảng Cái Lân - Hải Phòng cũng được vay 450 triệu đô la làm đường xe lữa cao tốc điện hóa nay vhắc đã xong .Hinh như năm 2013 ? , Việt Nam còn muốn dùng viện trợ Nhật xây dựng lại đường xe lữa thành xe lữa cao tốc Bắc- Nam , Hà Nội- Sài Gòn.
Năm 2000, tổng chiều dài các lọai đường bộ tỉnh nhà là 3981 km. Yên Bái năm đó, có 4 tuyến quốc lộ, tổng chiều dài là 369.5 Km. 2 tuyến dọc là quốc lộ 70 ở phía Đông và quốc lộ số 32 ở phía Tây được nối nhau bằng quốc lộ 37 ở phía Nam. Quốc lộ 70 chạy từ Đông Nam Lào Cai đến tỉnh Yên Bái qua Yên Bình ngay phía Bắc thị xã Yên Bái và nhập vào quốc lộ 2, dẫn tới Hà Nội qua Đoan Hùng. Quốc lộ 32 , chạy song song và chỉ cách quốc lộ 70 vài km phía Tây Nam , nối Tây Bắc Hà Nội với thị xã Yên Bái qua Sơn Tây, Lâm Thao và tỉnh Phú Thọ. Quốc lộ sô 37 nối thị xã Yên Bái tới Nông Trừờng Trần Phú ( huyện Văn Chấn ) ở phía Nam . Thị trấn Nông Trường này cũng được quốc lộ 32 chạy ngang qua và theo hướng Tây Bắc, qua thị xã Nghĩa Lộ , Nông trường Liên Sơn đến các vùng núi Tây Bắc tỉnh nhà và tỉnh láng giềng Lào Cai, kéo dài 183 km trên đường Lào Cai- Hà Nội dài 340 km. Tỉnh lộ có tổng chiều dài là 229 .5 km, đi qua 160 xã , nối các thị trấn huyện lỵ Trạm Tấu, Văn Yên, Trấn Yên, Lục Yên với các quốc lộ. Năm 2000, đường tỉnh lộ lọai tốt chỉ có14 % , còn lại là lọai xấu và rất xấu. Đường đô thị thuộc 2 thị xã Yên Bái và Nghĩa Lộ , chiều dài 78.5 km, chất lượng chỉ trung bình . Đường nông thôn chủ yếu là đường đất . Dù giao thông đường bộ đã được chú trọng, năm 2000 vẫn còn 21 trên tổng số 180 xã vẫn chưa có đường ô tô đến trung tâm .
Yên Bái có 2 tuyến chánh đường thủy. Tuyến sông Hồng, dài 115 km, trong đó 10 km ( Văn Phú - Yên Bái ) trung ương quản lý . Tuyến hồ Thác Bà, nối liền các xã phía Đông của hồ với quốc lộ 70, dài 80 km. Trong số này, trung ương quản lý 50 km ( từ cảng Hương Lý - Thác Bà đến Cẩm Nhân ).
Yên Bái không có giao thông đường hàng không dân sự. Sân bay quân sự Yên Bái, cách thị xã 5 km, hiện đang đựợc sử dụng huấn luyện phi công chiến đấu Không lực Việt Nam . Sân bay Nghĩa Lộ chỉ còn mặt bằng và sân bay Đông Cuông ( huyện Văn Yên ) đã phá mặt bằng làm sản xuất nông nghiệp.
Du lịch
Yên Bái có nhiều tiềm năng du lịch , nhất là du lịch sinh thái, văn hóa . Tuy nhiên đến năm 2000 tiềm năng này chưa được khai thác bao nhiêu cả. Năm 1999, số khách đến Yên Bái chỉ mới là 11 768 người, trong đó chỉ 213 lượt khách quốc tế . Doanh thu du lịch cũng nhỏ bé. Năm 1999 chỉ là 5.8 tỉ ĐVN, phần lớn tập trung ở thị xã Yên Bái ( 95.6% ) . Năm 2014, Yên Bái đã vay tiền phát triễn dài hạn ( 50 năm ? ) 6 dự án chánh du lịch: du lịch sinh thái - ecotourism ở Vân Hội (, hay Đầm Ván Hội ? huyện Trấn Yên ) , Suối Giàng ( huyện Văn Chấn ), Bản Học ? , Đầm Hậu ? và Tân Hương ( huyện Yên Bình, gồm luôn khu an dưõng cho người già ), và du lịch hồ Thác Bà. Mỗi nơi hy vọng đón mời 30 000 - 40 000 du khách một năm.
Hồ Thác Bà là một hồ nhân tạo xây cất thủy điện. Hồ rộng 23 400 ha và có 1331 tiểu đảo. Chiều dài của đập là 657m và đập cao 48m, chứa đựng được tối đa 2. 49 km khối- cubic kilometres, chứa nuớc sông Chảy chừng 2.16 km khối, đưa vào ở vị trí đập một diện tích lưu vực là 6430 km2. Hồ dài 60 km, trải rộng 235 km2 khi mực nước có độ cao + 58m, chịu đựng được lũ ngàn năm khi mức lũ đạt mức +59.65 m. Đậy là dự án thủy điện lớn nhất tỉnh, đập khởi công năm 1964 và hoàn thành năm 1971 với sự giúp đở của Nga Sô Viết. Đơn vị nhà máy phát điện thứ nhất thiết kế tháng 10 năm 1971, đơn vị thứ hai tháng 8 năm 1972 và đơn vị thứ ba ngày 19 tháng 5 năm 1972 . Dù rằng vào thời gian này khu c vực nhà máy bị không lực Hoa Kỳ đánh phá nhiều lần. Hiện nay công xuất tổng cọng là 120 000 Kw, tiềm năng phát sinh điện lượng là 400 triệu Kw giờ /năm. Du lịch Thác Bà nhắm vào Lễ Hội Sông Hồng -Thác Bà , tổ chức làn đầu tiên các ngày 29- 31 2012 ( tức là các ngày mồng 8 đến mồng mười tháng ba Âm lịch ) , tại Đền Thờ - Temple Thần Vệ Quốc , thuộc xã Đông Cuông, huyện Văn Yên . Mục đích Lễ Hội là phát triễn các giá trị tinh thần văn hóa dân gian Sông Hồng. Đây cũng là một phần chương trình du lịch “ Về Cội Nguồn “ thăm viếng các di vật ở vùng phụ cận thuộc nền văn hóa - văn minh Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ ) của ba tỉnh Phú Thọ , Yên Bái và Lào Cai . Lễ Hội mở đầu 45 phút, có 4 đặc điểm trình diễn nghệ thuật : Ca múa sông Hồng , Trên sóng nước sông Hồng , Các Mùa Phù sa sông Hồng và Tiếng Gọi Sông Hồng. Ngòai ra còn nhiều họat động sôi nổi khác như lễ hội thương mãi vùng , thi nấu nướng , triễn lãm đề tài Sông Hồng Xưa và Nay , cách làm giấy mỏng - giấy dó - poonah paper lễ hội phù phép tộc dân Dao ( huyện Văn Yên ) , chọi trâu , dâng hương, rước kiệu thần Thành Hòang và Thánh Mẩu, mùa xòe, đánh còn , cùng những giải trí khác thi đua chèo thuyền trên hồ, leo núi , tham quan cảnh vật rừng đặc thù Hòang Liên Sơn …. Múa xòe nón là một điệu múa đặc sắc của đồng bào tộc dân Thái. Nón trong tay cô gái Thái giống như đóa hoa ban ( lòai Bauhinia variegata ) hé nở ; nhưng chiếc nón chụm vào, mở ra từ từ từng cánh như một bông hoa trắng muốt. Trong điệu xòe, nón khi lao nhanh trên đầu, khi nhẹ nhàng quay trên vai, lượn trên tay nghiêng nghiêng bên má, khi e thẹn xe tròn trước ngực. Nón xoay , nón nghiêng, nón lượn làm cho điệu xòe thêm hấp dẫn ( theo Lê Ngọc Canh, Hà Nội, năm 1989 ).
Lễ hội thổi khèn ở Suối Giàng huyện Văn Chấn tổ chức vào tháng 6 mỗi năm . Khèn là nhạc cụ hết sức quen thuộc của đồng bào các tộc dân Thái, Mường, Lào , H’ Mong - Mèo. Nguời Mường thổi khèn đệm cho những điệu hát Thường , Đang . Người H’ mông dùng tiếng khèn để giao duyên trai gái và làm đạo cụ cho những điệu múa khèn … Lễ hội Suối Giàng còn là một lễ hội tộc dân H’ Mong, ca ngợi giá trị của cây trà cỗ thụ đã giúp dân Mèo ra khỏi vòng nghèo khổ. Lễ hội Suối Giàng còn kềm theo múa khèn, ném Pao .. .và thăm viếng cảnh quan đẹp đến rừng nguyên sinh Tập Làng ?, rừng thông và nhất là các đồi trà Tuyết Sơn, cùng lúc thở không khí tươi mát, nhờ cao độ của Suối Giàng 1370 m trên mặt biển.
Các lễ hội Yên Bái khác đáng kẻ khác là Lễ Hội Nam Cường tháng ba, ở ngay trong xã Nam Cường thị xã Yên Bái thả chim bồ câu hay “ nghĩa điểu”, biểu tượng cho “Hòa Bình” và “ Thủy chung”. Bồ câu là giống chim hiền lành , sống theo bầy đàn , có khả năng định hướng cao và có tính đồng đội không bỏ đàn khi bay. Lễ Hội Hoa Bưởi, tổ chức mỗi tháng chín ở nhà làng Khả Linh , xã Đại Minh , huyên Yên Bái , ngòai cúng dường hoa bưởi thơm dịu, còn có thể tham quan làng văn hóa Ngòi Tu , tham dự đua thuyền đò và nhiều trò chơi thể thao khác . Tuần Lễ Hội Mừờng Lò, tổ chức mỗi năm vào tháng 10 ỏ Thị xã Nghĩa Lộ, kỷ niệm chiến thắng lớn thời kháng chiến chống Pháp chiếm đồn Nghĩa Lộ ngày 18 tháng 10 năm 1952 như đã kể trên, giúp giải phóng Tây Bắc, trước Điện Biên Phủ. Vùng này còn có di tích Căng , nơi thực dân Pháp thuộc địa giam giữ tù chánh trị với sự kiện 9 chiến sĩ hy sinh khi vượt ngục . Ngòai thi đua thể thao , lễ hội còn là nơi triễn lãm các sản phẩm các tỉnh Vùng Tây Bắc và thi đua ẩm thực .
…
Vài nét tiêu biểu nông lâm Yên Bái
Trước tiên là việc thành lập, năm 2004, khu bảo tồn đời sống hoang dã Mù Căng Chải, rộng 20 293 ha , gần biên giới tỉnh Lào Cai. Sau đó là tăng gia khu vực rừng phòng hộ phía tây tỉnh và trồng lại rừng. Năm 2013, Yên Bái đã có 469 000 ha rừng cao hơn dự trù cho năm 2010 là 414 000 ha ) bao phủ 51 % tổng diện tích tỉnh nhà ( thay vì chỉ còn độ che phủ 37,6 % năm 1999), đứng hàng thứ 3 tòan cõi nước nhà. Đặc biệt là trồng quế - cinnamon , nay đã trên 15 000 ha, trong số 41000 ha dự trù và hơn 700 nông trang trồng các lọai cây làm giấy, ngòai các loài cây giá trị bản địa như sấu, trám v.v…
Về canh nông, đáng chú ý là phát triễn lúa lai - hybrids cao năng ở các vùng núi Mù Căng Chải, trồng hai vụ lúa một năm thay vì chỉ một vụ ở các ruộng bậc thang, trồng thêm một vụ Đông bắp - ngô ở các thung lũng đã trồng 2 vụ lúa một năm . Tuy nhiên cố gắng tăng gia sản xuất lúa, ngô, cần thâm canh hơn nữa vì mức sản xuất lương thực có hạt ( hột ) còn quá thấp ( năm 2002 chỉ đạt 259 Kg cho mỗi đầu người), dưới xa mức an tòan trung bình quốc gia ước lượng là 500 kg . Hai cây công nghiệp lâu năm là chè và cà phê cũng cần cải thiện, thâm canh thêm. Phải đẩy mạnh hơn nữa trồng chè Shan - Tuyết Sơn trên 35000 ha ở vùng cao và cố đạt trên 10 000 ha chè trung du giống mới ở vùng thấp. Tìm cách đưa thêm giống mới cao năng, cao phẩm cho cà phê arabica, diện tích còn khiêm tốn, chỉ mới đạt khoảng 900 ha năm 2000 .
…
( Irvine , Nam Ca Li - Hoa Kỳ , ngày 22 tháng 3 năm 2014 )
đ