25/9/2014
Phần 3
Khác hẳn Algérie, kiều dân Pháp không đến cư trú nhiều ở Đông Pháp. Năm 1940 chỉ kiểm kê được 34 000 Pháp dân sự, song song với một số nhân viên nhỏ hơn gồm quân đội và công chức . Sở dĩ như vậy là vì Pháp xem Đông Pháp là thuộc địa khai thác kinh tế- colonie d’ exploitation économique thay vì là thuộc địa định cư dân - colonie de peuplement ( Pháp xem dân ở chánh quốc là đã quá đông ), vì lẽ Đông Pháp cũng xa Pháp Quốc. Tuy nhiên, trong thời Pháp thuộc địa, tiếng Pháp là ngôn ngữ chánh ở giáo dục , chánh quyền, thương mãi báo chí truyền thông và tiếng Pháp được phổ thông rộng rải trong dân gian. Tiếng Pháp rất thông dụng ở thị thành hay thôn quê bán đô thị, trở thành tiếng nói chánh của giới thượng lưu và giới có học. Đặc biệt ở Bắc kỳ và Nam Kỳ hai miền chịu nhiều ảnh hưởng Pháp, trong khi Trung Kỳ, Lào và Căm Bốt ít bị ảnh hưởng gíao dục Pháp hơn. Dù tiếng Pháp chủ trì khắp Đông Pháp, dân gian vẫn sử dụng tiếng địa phương mình. Khi nền cai trị Pháp chấm dứt, các chánh quyền quốc gia mới vẫn sử dụng tiếng Pháp ( ngọai trừ Bắc Việt ). Nhưng từ đó tiếng Anh càng ngày càng được dùng nhiều thêm ở trường học và đã thay tiếng Pháp ở địa vị ngôn ngữ, sinh ngữ thứ 2, sau tiếng mẹ đẻ . Ngày nay số người Việt nói được tiếng Pháp ít hơn 0.5 % .
Vì là thuộc địa khai thác, nên kể từ năm 1930, Pháp bắt đầu khai thác các tài nguyên thiên nhiên và cố đa dạng kinh tế Đông Pháp . Cả 3 kỳ Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ trở thành một nguồn sản xuất trà ( Chè ), lúa gạo, cà phê, tiêu , than đá, kẻm và thiếc . Căm Bốt là một trung tâm lúa gạo và tiêu , chỉ có Lào được xem là một thuộc địa không đáng khai thác, ngòai gỗ trên một kích thước tương đối nhỏ hẹp. Đầu thế kỷ thứ 20, công nghệ ô tô tăng mạnh ở Pháp , thành quả là tăng trưởng ngành trồng cao su, và các đồn điền mọc lên đặc biệt ở Cao nguyên Trung Phần ( lúc đó thuộc Trung Kỳ ) và miền Đông Nam Kỳ . Cao su các đồn điền Pháp ở Đông Pháp giúp Pháp trở thành một quốc gia dẫn đạo sản xuất cao su, rất cao giá ở thị trường công nghệ thế giới. Thành công trồng tĩa cao su như hảng Michelin, kéo theo đầu tư ở Đông Pháp vào ngành hầm mỏ, các đồn điền cao su, trà và cà phê. Đông Pháp bắt đầu công nghệ hóa. Các xưởng mới sản xuất tơ sợi, thuốc điếu , bia và xi măng; được xuất cảng khắp đế quốc Pháp. Nguồn tài chánh đầu tư ở Đông Pháp một phần lớn là do các thuế độc quyền về thuốc phiện - opium ,muối, và rượu gạo - nếp. Buôn bán ba sản xuất này, năm 1920 chiếm đến 40% ngân sách Đông Pháp, nhưng năm 1930 trụt xuống chỉ còn 20 % , khi Đông Pháp khỏi sự đa dạng kinh tế . Công cụ tài chánh là Ngân Hàng Đông Dương - Banque de L’ Indochine thiết lập từ năm 1875, có trách nhiệm in và phát hành đồng bạc- piastre Đông Pháp. .Đông Pháp là thuộc địa Pháp có mức đầu tư vào hàng thứ hai năm 1940 sau Algeria , tổng số đầu tư năm đó là 6.7 triệu phật lăng.
Sài Gòn - TP HCM trở thành Trung tâm Kinh tế chánh ở Việt Nam
GDP mỗi đầu người Sài Gòn cuối năm 2013 đạt 4500 $ -USD hơn gấp đôi năm 2007
Từ một làng đánh cá chỉ vài trăm gia đình, ở thế kỷ thứ 17, năm 1995, dân số Sài Gòn đã lên đến 4 640 400 người , năm 2000 là 5 274 900, năm 2005 là 6 230 900, năm 2010 là 7 378 000 và năm 2012 là 7 750 900 , nay có lẽ đã trên 8 triệu người ( theo cục thống kê năm 2012, thì dân số Sài Gòn đã là 8 382 287 người, tính theo cư dân đăng ký cọng thêm các nhân công di cư vào TP làm việc ). Năm 2005, Sài Gòn chiếm 8. 34 % dân số Việt Nam trên một diện tích chỉ vào khỏang 0. 6% lảnh thổ, nhưng chiếm 20.2 % GDP, 27.9% sản xuất công nghệ và 34.9 % các dự án FDI nước nhà. Năm đó, Thành Phố có 43 344 000 dân lao động, trong đó 130 000 già tuổi hơn tuổi lao động tiêu chuẩn Viêt Nam là 60 tuổi cho nam giới và 55 tuổi cho nữ giới. Năm 200, ước lượng GDP Sài Gòn đạt 14.3 tỉ $- USD nghĩa là 2 180 $ mỗi đầu người - per capita , tăng 12.6 % so với năm 2006, và chiếm 20% GDP cả nước, 5 lần hơn GDP mỗi người VN năm 2000, và 10 lần cao hơn năm 1995. Tính theo Sức Mua Tương Đương- Purchasing Power Parity , PPP, GDP sẽ là 71. 5 tỉ $ hay khỏang 10 870 $ mỗi đầu nguời, chừng 3 lần cao hơn trung bình cho cả nước. Tuy vậy năm 200, GDP- PPP Sài Gòn vẫn còn thua xa Singapore, ước lượng năm 2001 là 20 767 $ và Nhật Bổn là 24 489$ . Hòn Ngọc Viễn Đông Pháp thuộc Sài Gòn chưa theo kịp Hòn Ngọc Viễn Đông Anh thuộc Singapore, dù đã tăng phát triễn 10 lần hơn kể từ năm 1995. Giá trị Công nghệ Sài Gòn năm 2007 là 6.4 tỉ $, tương đương 30.5% giá trị công nghệ tòan quốc. Trị giá xuất nhập khẩu qua các cảng Sài Gòn - TP HCM là 36 tỉ $ , 40 % con số cả nước. Tăng thêm lợi tức góp phần ngân sách quốc gia khoảng 30% và chiếm 20.5% tổng lợi tức quốc gia. Yêu cầu tiêu thụ TP HCM cũng cao hơn các tỉnh VN và 1.5 lần cao hơn Hà Nội. Đến tháng 6 năm 2006, Sài Gòn đã có 3 khu chế xuất - export processing zones và 12 công viên công nghệ. Sài Gòn nhận cả thảy đến 2 530 dự án đầu tư ngoại quốc trực tiếp - FDI projects trị giá 16.6 tỉ $. Năm 2007, Sài Gòn đã hút dẫn 400 dự án FDI, trị gíá 3 tỉ $. Năm 2008, Sài Gòn hút dẫn thêm 8.5 tỉ $ FDI. Năm 2010, GDP Sài Gòn ước lượng đạt 20.902 tỉ $, nghĩa là chừng 2800 $ mỗi đầu người, cao hơn năm 2009 11.8 % . Cuối năm 2012, GDP Sài Gòn ước lượng là 20 .595 tỉ $ hay khỏang 3700 $ mỗi đầu người, 9,2 % cao hơn năm 2011. Tổng số thương mãi xuất nhập khẩu đạt 47.7 tỉ ( so với con số 36 tỉ $ năm 2007 đã kể trên ), 21. 57 tỉ $ là xuất khẩu và nhập khẩu là 26.14 tỉ $. Cuối năm 2013, GDP Sài Gòn tăng thêm 9.3 %, và GDP mỗi đầu người đạt 4500 $ - USD, tăng hơn gấp đôi năm 2007.
Thành phần các khu vực kinh tế
Công nghệ và xây cất chiếm 47,7 % và dịch vụ chiếm 51. 1%. Nông lâm ngư và các lảnh vực khác chỉ còn chiếm 1,2 % GDP. Quốc doanh vẫn còn chiếm 33.3 % nền kinh tế Thành Phố . Khu vực tư chỉ mới chiếm 4.6 % , phần còn lại là đầu tư ngọai quốc. Các ngành quan trọng của Sài Gòn là hầm mỏ, chế biến hải sản, nông nghiệp, xây cất, du lịch, tài chánh, công nghệ và thương mãi.
Công viên công nghệ và Vùng chế xuất xuất khẩu.
Tính đến tháng 6 năm 2006 , Sài Gòn có 3 khu chế biến xuất khẩu - export processing zones và 12 công viên công nghệ- industrial parks , ngòai Công viên Phần mềm - Software Park Quang Trung và Công viên Cao kỷ SaiGon Hi -Tech Park , SHTP. Công Ty Phầm mềm Quang Trung nằm ở quận 12 , cách trung tâm thành phố 15 Km ( 9 dặm Anh ), gồm vừa các hảng doanh nghiệp phần mềm lẫn các công ty “dot .com”. Công ty cũng có một trường đào tạo phần mềm. Các nhà đầu tư dot.com được cung cấp những tiện nghi và dịch vụ khác , tỉ như các cư gia và đường vào internet cùng nhiều ân huệ thuế khóa. Công Viên Cao kỷ SHTP ở Xa lộ Hà Nội , phường Tân Phú, quận 9. Hai công viên này là hai công viên cao kỷ quốc gia hiện có ở nước nhà và thuờng được xem là hai trong số 5 công viên dự án động lực chánh thúc đẩy Thành phố Phát triễn. SHTP nằm ở vị thế chiến lược , cũng cách trung tâm TPHCM 15 Km về phía Đông Bắc; cách Phi trường Tân Sơn Nhất 18 km, cách Cảng Sài Gòn 12km, gần Tân Cảng Sài Gòn , cảng Thị Vải và cảng Cát Lái . SHTP cũng là trung tâm cho Vùng Tụ điểm Kinh tế- Focal Economic Region Miền Nam Việt Nam gồm TPHCM và các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An. SHTP cũng nằm ở ngã tư các quốc lộ chánh: quốc lộ số 1, Vòng đai Xa lộ Xuyên Á nối Sài Gòn Nam Vang - Phnom Penh ( Căm Bốt ) , và Vọng Các - Bangkok ( Thái Lan ).( xem vị trí Sài Gòn đối với các đô thị Đông Nam Á: Trung Quốc , Myanmar , Thái Lan , Lào , Căm Bốt và miền Bắc Mã Lai Á đính kèm ). SHTP còn kế cận 55 vùng công nghệ và vùng chế xuất quanh Sài Gòn và các đô thị; gần Viện Đại học Quốc gia TP HCM có trên 15 000 sinh viên về khoa học và kỷ thuật, cũng như sân Gôn - Golf Thủ Đức . SHTP tập trung kêu gọi đầu tư ở 4 lảnh vực ưu tiên: 1- là điện tử micrô electronics , kỷ thuật thông tin và viễn thông ; 2- là cơ học chính xác - precision mechanics; 3- là kỷ thuật sinh học - biotechnology ứng dụng cho nông nghiệp , dược phẩm và môi sinh: 4 - là kỷ thuật nanô và vật liệu tiên tiến - advanced materials . Đầu tư ở SHTP rất đa dạng có thể là chế tạo cao kỷ , dịch vụ cao kỷ ( như các trung tâm dây nói - call centers , trung tâm dữ liệu- data centers , phát triễn phần mềm ), khảo cứu và phát trirễn, ấp ủ hay huấn luyện đào tạo. Những tổ hợp công ty danh vang thế giới như Intel ( Hoa Kỳ), tổ hợp Jabil Corporation( Hoa Kỳ ? ) tổ hợp Nideo Cor poration ( Nhật ) , Sonion A/Ds ( Đan Mạch ) và HPT ( ViêtNam ) đều đã có mặt. Intel đã đầu tư 1 tỉ đô la năm 2006 lập một xưởng chế tạo ở TP HCM. Ba công viên SHTP , Công viên phần mềm Quang Trung, và Công viên phần mềm Tân Thuận ( ? ) rộng 32 ha ở vùng chế xuất Tân Thuận, quận 7 hy vọng sẽ giúp Sài Gòn trở thành một thành phố cao kỷ cho cả nước và cho Đông Nam Á, một vị trí nguồn ngọai - outsourcing location cho các doanh vụ các nước tiên tiến, đã phát triễn ở Ấn Độ. Không rỏ ngành rôbốt điện tử tiên tiến- advanved robotics , ngành công nghệ cơ học rôbốt chính xác … Việt Nam , phát triễn mạnh nhất ở Công viên công nghệ ,K hu chế xuất nào ?… Hảng Robotland, chánh phủ Hàn Quốc - Nam Hàn của bà tổng thống Phác Huệ Hy - Park Geun Hye trợ cấp 735 triệu $, đặc điểm là phát huy các phát minh tương lai cùng những Labô khảo cứu và phát triễn thêm ngành công nghệ điện tử- cơ khí rô bốt Robotics nay đầu tư vào côngviên công nghệ , khu chế xuất nào ở Việt Nam? Theo Bloomberg Businessweeks số 1 tháng 9 đến 21 tháng 9 năm 2014, ngành công nghệ robotics ở Nam Hàn đã tăng gấp đôi kích thước kể từ năm 2009, lợi tức gần 1 tỉ $ năm 2012 . Chánh Quyền Nam Hàn muốn tăng lợi tức này lên 3.5 tỉ $ năm 2018, làm ra 600 công ty robôtic nội địa, sử dụng 34 000 lao động, nhân công. Chuyên mônNam Hàn về kỷ thuật màn ảnh - screen technology , bán dẫn - semiconduc tors . Theo Lee Jeong Yeob, Chánh kỷ sư Khảo cứu của Công ty Hyundai Rotem, một công ty quốc phòng, thành phần của nhóm Tổ Hợp Hyundai Motor Group, các kỷ thuật căn bản vừa kể, sẽ giúp Nam Hàn dẫn đạo ngành và Nam Hàn phải sử dụng chúng hầu thương mãi hóa rô bốt. Tuy vậy, Nam Hàn cũng chưa đuổi kịp các nước tân tiến khác, mới đứng hàng thư tư thế giới về công nghệ rô bốt . Nhất là khi nước đứng đầu là Nhật Bổn, nhìn thấy các công nghệ cao kỷ của mình bị Samsung, Apple và Google đánh sầm cửa và thủ tướng Shinzo Abe đã tập hợp một hột đồng chuyên môn - task force , tìm cách tăng gấp ba kích thước công nghệ rô bốt Nhật lên 22 tỉ $ -USD ( 2.4 ngàntỉ yên ) , nghĩa là 6 lần hơn Nam Hàn . Hiện Sài Gòn đ có chừng 300 000 doanh vụ , nhiều doanh vụ lớn liên hệ đến cao kỷ , điện tử , công nghệ chế biến hay nhẹ , và ở ngành vật liệu xây cất hay xây dựng và sản phẩm nôngnghiệp . Thêm vào đó cũng nên kể thêm ngành dầu lữa thô, một căn bản kinh tế phổ thông cho Thành Phố . Tổng số đầu tư tư nhân đã lên đến 160 tỉ Đồng ĐVN (7.5 tỉ đô la ) với 18 500 công ty mới thiết lập. Khuynh huớng đầu từ là cao kỷ, dịch vụ và các dự án bất động sản - real estates projects. .
Irvine , Nam Ca Li- Hoa Kỳ ngày 12 tháng 9 năm 2004)
Sẽ tiếp phần IV: Hạ tầng cơ sở cũ mơi , danh lam thắng cảnn , diu l ịch , thương mã I, các vùng ngoại ô ….