17/7/2014
Năm 2015, có 2 cách đi từ Sài Gòn đến Đà Lạt:
Sài gòn - Ma Lâm - Đà Lạt
Phần 1
Đẹp nhất hồ xanh hay thác trắng?
Vừa hái hoa rừng vừa cải nhau.
( Thơ Ca Lê Hiến - 1989 - 1995, hai hồ lớn Đà Lạt là hồ Xuân Hương, hồ Đa Thiện, các hồ khác là Than Thở, Vạn Kiếp, Mê Linh… Cách thành phố không xa là các thác Liên Khương, Prenn, Đatanla, Cam Ly … xa hơn tí nữa là các thác Pông gua , Gu Ga… Rừng gợi cảm là rừng Ái Ân, đập Suối Vàng, thung lũng Tình Yêu,đồi thông Hai Mộ …)
Mươi nếp nhà tranh, mươi tá lưu dân…
Là quang cảnh Đà Lạt khỏang thập niên đầu thế kỷ thứ 20, nhưng năm 1939 Đà Lạt đã có 427 biệt thự và hơn chục vạn dân( theo Bùi Văn Trọng Cường ), vượt Tam Đảo, nơi :
Mây sà xuống ôm rừng thông xanh biết,
Suối nghiêng mình nghe khúc nhạc thông reo
( Thơ cũ theo nhà sử học Nguyễn Vĩnh Phúc )
Vị trí
Lâm Đồng là một trong 5 tỉnh Tây Nguyên ( Cao Nguyên Trung Phần )- Central Highlands ; 4 tỉnh Tây Nguyên khác là Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông. Lâm Đồng có đặc điểm là không có biên giới chung với các quốc gia Lào, Căm Bốt ) . Nằm về phía Nam Tây Nguyên, tọa độ là vĩ tuyến Bắc 11012 - 12015’ và kinh tuyến Đông 107015’ - 108045’. Đông giáp hai tỉnh Khánh Hòa và Ninh Thuận, Tây Nam giáp tỉnh Đồng Nai, Nam giáp tỉnh Bình Thuận, Tây giáp tỉnh Bình Phước và Bắc giáp hai tỉnh Đắc Lắc và Đắc Nông. Diện tích nay là 9 764.8 km2 ( 3770.2 dặm Anh vuông ),nhỏ hơn chút ít con số tiến sĩ Thái Công Tụng ghi ở tài liệu Vietnamologica số 6 - 2005 là 9 953 km2, tỉnh hẹp nhất Tây Nguyên, trước khi tỉnh Đắc Lắc cũ chia ra làm hai năm 2003 là tỉnh Đắc Lắc mới ( 13062 km2) và tỉnh Đắc Nông ( 6514 km2 ), nguyên là tỉnh Quảng Đức ( thị xã là Gia Nghĩa) thời Cộng Hòa. Sau năm 1975, Lâm Đồng cũng là hai tỉnh Tuyên Đức ( thị xã là Đà Lạt) và tỉnh Lâm Đồng cũ ( thị xã là Bảo Lộc - Blao) nhập lại.
Về hành chánh, Lâm Đồng gồm hai thị xã Đà Lạt và Bảo Lộc và 10 huyện : Bảo Lâm ( Lộc Thăng), Cát Tiên ( Đồng Nai ), Đa Hòai( Madagui ), Đa Tẻ ( teh ), Đam Rồng, Di Linh, Đơn Dương ( Thành Mỹ ), Đức Trọng( Liên Nghĩa ), Lạc Dương, Lâm Hà ( Nam Ban, Định Vân ). Dân số năm 1996 là 722 322 người, năm 2007 là 1 189 327 người. Tăng gia mỗi năm trung bình 40 - 50 000. Như vậy, năm 2014 có thể đã gần 1500 000 người. Lâm Đồng có đến 40 tộc dân sinh sống, nhưng đông nhất theo thứ tự là tộc dân Kinh -Việt , các tộc dân thiểu số Cơ Ho , Mạ , Nùng, M’Nông…. Nhắc lại các tộc dân Cơ Ho, Mạ, M’ Nông thuộc nhóm ngôn ngữ Môn - Khmer và tộc dân Nùng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày - Thái,sinh sống nhiều nhất rải rác 12 tỉnh miền Bắc Việt Nam, nhưng sau 1954 - 55 đã tập trung nhiều ở khu vực Tùng Nghĩa Lâm Đồng chuyên khai thác thơm - dứa…
Suôi dòng lịch sử Lâm Đồng
“ Từ vài thôn ấp sông Dã Dương đầy cá sấu, thuộc Bình Thuận qua năm 1899 tên là Đồng Nai Thượng ( Haut Donnai )- Cao nguyên Liang Bian, hủy bỏ năm 1905 ,tái lập năm 1920, sáp nhập năm 1950 Lâm Viên và Đồng Nai Thượng thành Lâm Đồng và xác nhận tên này năm năm 1958, dân số tỉnh là 49 599 người chỉ bằng 1/30 dân số ngày nay , trên diện tích là 10 650 km2 , lớn hơn dôi chút diện tích ngày nay . Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, sách thời nhà Nguyễn Phước, thì trước năm 1899, đa số lảnh thổ tỉnh Lâm Đồng ngày nay thuộc tỉnh Bình Thuận và một phần Ninh Thuận. “ Di Linh thơ phú” ghi là lúc đó có 20 thôn ấp , ghi tên một một con sông là Dã Dương về phía Tây, không sâu , nhưng đầy cá sấu : Tây hửu Dã dương giang, bất thâm nhi quảng, trung đa ngạc ngư. Sách cũng ghi rỏ họat động hai bên bờ sông . Phía Nam do các thương gia Tàu cư ngụ . Phía Bắc rất ít cư dân. Năm thứ 19 đời vua Tự Đức , triều đình Huế gửi nhân viên thám hiểm vùng này, nhưng người Thượng lo sợ, không chịu hướng dẫn nên cuộc thám hiểm thất bại.
Ngày một một tháng 11 năm 1899, tòan quyền Paul Doumer ký quyết định thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng và hai cơ sở hành chánh là Tánh Linh và Cao nguyên Lang Bian. Tỉnh Đồng Nai Thượng gồm thượng dòng sông Đồng Nai giáp Nam Kỳ - Cochinchine và Căm Bốt, thị xã là Di Linh- Djiring. Năm thứ 17 đời vua Thành Thái năm 1905, bải bỏ tỉnh Đồng Nai Thượng và đặt lảnh thổ này trực thuộc lại tỉnh Bình Thuận. Ngày 16 tháng giêng năm 1916 , Tòan quyền E. Roume ký quyết định thành lập tỉnh Lang Bian gồm toàn thể vùng núi non của các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Đồng Nai, Bình Phước ngày nay. Ranh giới tỉnh Lang Bian là sông Krong Knô về phía Bắc, sông Krong Pha ( nay thuộc tỉnh Ninh Thuận ) về phía Đông Nam, sông Cà Giai một chi lưu sông Lũy - Phan Rí ( thuộc tỉnh Bình Thuận ) về phía Nam , phía Tây là biên giới với Căm Bốt. Sắc lệnh thành lập Đà Lạt là trung tâm đô thị ở Lang Bian đước ký vào ngày 20 tháng tư năm 1916 đời vua Duy Tân, và được Khâm Sứ Trung Kỳ là J. E. Charles ký xác nhận ngày 30 tháng 5 năm 1916. Ngày 8 tháng giêng năm 1941, tòan quyền Decoux ký quyết định thiết lập vùng Lang Bian , tự phong cho mình làm thị trưởng Đà Lạt và thống đốc tỉnh Lang Bian.
Tháng 8 năm 1945 , Ủy Ban Nhân Dân Cách Mạng Lâm Thời và Mặt Trận Việt Minh thiết lập tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng. Ngày 14 tháng 12 năm 1950, chủ tịch Ủy Ban Kháng chiến Trung Bộ Nguyễn duy Trinh ký nghị định sáp nhập tỉnh Lâm Viên và Đồng Nai Thượng vào tỉnh Lâm Đồng. Phó thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa Phạm Văn Đồng ký xác nhận nhập Đồng Nai Thượng và Lâm V iên vào tỉnh Lâm Đồng ngày 22 tháng 2 năm 1951. Ngày 10 tháng 11 năm 1950, quốc trưởng( vua ) Bảo Đại cũng đã ký sắc lệnh qui định ranh giới thị trấn Đà Lạt và tỉnh Đồng Nai Thượng. Theo Địa Phương chí, thị trấn Đà Lạt là trung tâm của Hòang Triều CươngThổ- Crown Domain, diện tích 67 km2 và dân số là 25 041 người .
Tỉnh Đồng Nai Thượng như vậy được thiết lập năm 1899, hủy bỏ năm1905, tái lập năm 1920. Năm 1956 , diện tích Đồng Nai Thượng là 10 650 km2 và dân số là 46 599 người. Djiring là thị xã. Lúc đó tỉnh gồm 3 huyện: Djiring có 188 làng, Blao có 159 làng và Dran - Fyan có 274 làng. Ngày 19 tháng 5 năm 1958, tổng thống Ngô Đình Diệm ra nghị định đổi tên tỉnh Đồng Nai Thượng thành tỉnh Lâm Đồng. Ngày 30 tháng 11, chuyễn thị xã từ Djiring xuống Blao. Ngày 19 tháng 2, Blao đổi tên thành Bảo Lộc, và Djiring thành Di Linh . Xã B’Sar tỉnh Bình Tuy sáp nhập vào huyện ( quận ) Bảo Lộc ngày 12 tháng 7 năm 1965. Ranh giới năm 1965 của tỉnh Lâm Đồng là tỉnh Quảng Đức về phía Bắc, hai tỉnh Tuyên Đức và Bình Thuận về phía Đông, hai tỉnh Bình Thuận và Bình Tuy về phÍa Nam , hai tỉnh Phước Long và Long Khánh về phía Tây. Năm 1972, diện tích tỉnh Lâm Đồng là 5 500km2, dân số là 90 157 người, thị xã là Bảo Lộc. Ngày 19 tháng 5 năm 1958 , tổng thống Ngô Đình Diệm thiết lập tỉnh Tuyên Đức. Ngày 30 tháng 5 năm 1958, quận ( huyện ) Dran tách rời khỏi Lâm Đồng và nhập vào Tuyên Đức . Bắc Tuyên Đức đi ngang phía Nam núi Chu Yang Sin, Đông gần núi Bi Đúp , Tây Nam là đỉnh đèo Ngọan Mục, Tây là các sông Đa Nhim, Dak Nông và Đá Trong. Năm 1958 diện tích tỉnh Tuyên Đức là 5067 km2 , dân số là 49 025 người và thị xã là Đà Lạt,và có 3 quận là Đơn Dương, Đức Trọng và Lạc Dương.
Theo quyết định ngày 20 tháng 9 năm 1975 của Bộ Chánh Trị - Politburo: Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và Đà Lạt là 4 thành phố trung ương quản trị và 4 tỉnh Lâm Đồng, Tuyên Đức, Bình Thuận và Ninh Thuận hợp thành một tỉnh mới, tên là Thuận Lâm, thị xã là Phan Rang. Tháng 2 năm 1976 , Chánh Phủ Lâm Thời Cách Mạng Cộng Hòa Miền Nam ra quyết định nhập các tỉnh này vào Miền Nam Việt Nam và lập ra tỉnh Lâm Đồng, gồm tỉnh Lâm Đồng, tỉnh Tuyên Đức và thành phố Đà Lạt. Ngày 14 tháng 3 năm 1979, lại chia Bảo Lộc ra làm 2 huyện là là Bảo Lộc và Đa Huoai; Đơn Dưong thành 2 huyện Đơn Dương và Lạc Dương . Sau khi chia huyện ,tỉnh Lâm Đồng gồm có 6 huyện, 1 thành phố là Đà Lạt, 61 xã, 5 thị trấn và TP Đà Lạt gồm 6 phường . Ngày 19 tháng 9 năm 1981, Quốc hội Việt Nam khóa 7 ra quyết định nhập xã Đồng Nai ( 18 000 ha ) huyện Phước Long tỉnh Sông Bé vào huyện Đa Huoai tỉnh Lâm Đồng. Ngày 22 tháng 11 năm 1995 nhập 34 000 ha phía Bắc sông Krong Knô vào tỉnh Đắc Lắc. Tháng 4 năm 2010 thị trấn Bảo Lộc được công nhận là đô thị hạng III nước nhà. Nay tỉnh Lâm Đồng gồm hai thị xã là Đà Lạt , Bảo Lộc , 10 huyện và 149 xã như đã nói trên .
Lịch sử và danh lam thắng cảnh Đà Lạt , xứ ngàn thông, ngàn hoa ( lay dơn, hoa hồng, cẩm tú cầu … ), nước hồ im- thác reo ...
Từ dòng suối nhỏ Đà tiếng Cơ Ho và Lạt tên một bộ tộc sống dưới chân núi Lang Bian. Năm 1893, Paul Doumer năm 1893 chấp nhận đề nghị của Yersin thiết lập trên Cao Nguyên Lâm Viên một thành phố nghĩ mát cho kiều dân Pháp. Trước năm 1893 , khi còn thuộc “ Lâm Sơn Phần” của bản đồ tỉnh Ninh Thuận, Đà Lạt chỉ có tổng cọng là 17 làng và 268 người. Năm 1900 ( ? ) Paul Doumer thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng và hành chánh Lâm Viên,cử Champoudry làm “ thị trưởng” đầu tiên của Đà Lạt. Năm 1901, đường xe lữa Tháp Chàm - Đà Lạt được hoạch định. Tuy ngân sách rất ít ỏi, Champoudry cũng dời được xây cất trạm khí tượng Dankia , lập một khách sạn Đà Lạt đầu tiên là Khách Sạn Hàng Không ngày nay, tiền thân của Khách sạn Hotel du Lac và ,năm 1909, hòan tất khúc đoạn Tháp Chàm - Xóm Gòn chỉ trong 6 tháng . Ở nhiệm kỳ hai, tòan quyền Paul Doumer trước năm 1914 , phát triễn mạnh mẽ y tế , giáo dục và xây dựng Đà Lạt. Năm 1913, chánh quyền thuộc địa làm xong đọan đường Phan Thiết - Djiring ( nay là quốc lộ 28 ) và năm 2014 đọan đường Driring - Đà Lạt ( nay là quốc lộ 20 ), đường xe lữa Phan Rang - Krong Pha được sử dụng giúp doanh nghiệp và du lịch phát triễn nhiều giữa vùng Đà Lạt và các châu thổ duyên hải. Lạt dài 354 km và Sài Gòn - Phan Rang - Đà lạt dài 414 km . Khi Thế Chiến Thứ Nhất khởi đầu , kiều dân Pháp và các dân da trắng khác đổ xô lên nghĩ mát ở Đà Lạt , vì không về được cố hương và khí hậu Đà Lạt tương tự Âu Châu. Nhờ đầu tư khai thác Đông Pháp, từ năm 1916 đến thời kỳ kinh tế khủng hỏang thập niên 1930, rất nhiều ngọai kiều đến Đông Pháp: năm 1937 có đến trên 30 000 kiều dân Pháp và năm 1943 có đến 466 000 ngọai kiều Tàu. Đà Lạt lúc đó rất được ưa chuộng. Triều đình Huế không có uy quyền gì về ngọai giao và quân sự: từ chế độ bảo hộ , Trung Kỳ tiến tới chế độ bị trực trị . Nhân viên Huế bổ nhiệm ở Đà Lạt chỉ là hình thức. Khởi đầu, công chức Pháp làm phụ tá cho họ , nhưng dần dần các nhân viên Việt trở thành phụ tá cho nhân viên Pháp. Năm 1916 , vua Duy Tân ký sắc lệnh thiết lập thị trấn Đà Lạt . Nhưng tinh thần sắc lệnh là chuyễn mọi quyền cai trị Đà Lạt cho tòan quyền Đông Pháp . Dân số Đà Lạt năm 1923 là 1500 người, năm 1925 tăng lên đến 2400 ngườ . Hạ tầng cơ sở Đà Lạt được phát triễn như Palace Hôtel các năm 1916- 1922, hồ trên sông Cam ly năm 1919 do kỷ sư Labbé xây cất , các trạm phân phối điện năm 1918, bưu điện, trường học năm 1920 và các bungalow gỗ. Rất nhiều khu phố được thiết lập ở phía Nam, Đông Nam và phía Tây Hồ Lớn. Dân Kinh - Việt tập trung ở làng Đa Lạc phía Bắc và Tây Bắc dòng suối Cam Ly. Ngày 16 tháng 8 năm 1921, tòan quyền René Robin thiết lập khu bảo tồn Trạm Bờ (? ) rộng 8000 ha. Năm 1921, xây cất bệnh viện Đà Lạt , thay cho nhà hộ sinh lợp tranh. Cũng năm 1921, kỷ sư Ernest Hébrand vẽ ra một kế họach cho Đà Lạt, làm xong năm 1923 lập một dãy hồ từ thác Cam Ly đến hồ Than Thở trên dòng Cam Ly, với ý đồ biến Đà Lạt thành thủ đô Đông Pháp. Nhưng dự án bị chỉ trích nặng nề, vì tốn kém, không mấy lưu tâm đến cảnh quan thiên nhiên, từ các đồi đến núi Lâm Viên đẹp đẽ… Năm 1933, kiến trúc sư Pineau phát họa một cái nhìn thực tiển hơn, theo đó một đã hồ từ Tây sang Đông Nam bao quanh thị trấn Đà Lạt, mọi nét chánh được gìn giữ năm 1943. Năm 1927, một trạm điện mới được xây dựng. Năm 1930, làm xong các trại lính Courbet. Năm 1932, thực hiện đường nối kết trực tiếp Đà Lạt -Sài Gòn qua đèo Blao . Năm 1935, trường trung học Yersin mở cửa . Năm 1936, thành lập Viện Pasteur . Năm 1937, hòan tất đường số 21, nối Đồng Nai Thượng với tỉnh Đắc Lắc và bắt đầu xây cất phủ tòan quyền. Năm 1938 làm xong trạm xăng Đà Lạt. Năm 1939, trường Thiếu Sinh Quân hòan tất trong khuôn viên Viện Đại Học Đà Lạt ngày nay. Nhiều biệt thự dựng lên ở đường Hoa Lay yơn ( rue des Glaieuls), đường Hoa Hồng ( rue des Roses ) và Khách sạn Saint Benoit. Năm 1936, Đà Lạt chỉ có 327 biệt thự; năm 1935 có 398 biệt thự và năm 1939 có 427 biệt thự