31/7/2014
Đất Sơn Nam tự thuở mở non sông
(Tục ngữ miền Bắc nói về nguồn gốc tỉnh Thái Bình)
“ Lê Quí Đôn là người học vấn rộng khắp, đặt bút thành văn. Cốt cách thơ trong sáng. Lời văn hồn nhiên …, không cần suy nghĩ mà trôi chảy dồi dào như sông dài biển cả, không chỗ nào không đạt tới, thật là phong cách đại gia.” ...
( Lời bàn của Phan Huy Chú “1782-1840” về thơ của Lê Quí Đôn “1726- 1784”, sinh quán huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, một nhà bác học, nhà thơ, để lại cho Việt Nam 40 bộ tác phẩm gồm hàng trăm quyễn. Đối với Miền Nam nước nhà là Phủ Biên Tạp Lục, viết trong thời gian ông làm Hiệp Trấn Thuận Hóa, ghi chép tình hình xã hội Đàng Trong, từ thế kỷ thứ 18 trở về trước .)
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bễ...
… Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ ...
( trích bài thơ “Chí làm trai” của Nguyễn Công Trứ “1778 - 1858” , người chiêu mộ dân khẩn hoang, lập ra huyện Tiền Hải năm 1826, thuộc tỉnh Thái Bình,còn Kim Sơn- Phát Diệm nay lại thuộc tỉnh Ninh Bình)
Vị trí
Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển, nằm phía Nam vùng châu thổ sông Hồng và là một trong những “ vựa lúa” của Đồng Bằng Bắc Bộ. Thái Bình vốn là một vùng đất cổ “đất Sơn Nam tự thuở mở non sông” . Bắc giáp tỉnh Hải Dương và Thành Phố Hải Phòng, Tây giáp hai tỉnh Hà Nam và Hưng Yên, Nam giáp tỉnh Nam Định và Đông là Biển Đông- Thái Bình Dương . Tọa độ là từ 200 17’ đến 200 44’ vĩ tuyến Bắc và từ 1060 06’ đến 1060 39’ kinh tuyến Đông. Từ Tây sang Đông dài 54 km và từ Bắc xuống Nam dài 49km, diện tích bờ biển là 53 km. Diện tích tự nhiên, năm 20 10 là 1 567.4 km2 ( năm 2000 ghi là 1519.9 km2 ). Dân số năm 1995 là 1752 .3 nghìn người, năm 2000 là 1 803. 8 nghìn, năm 2010 phải trên 1900 nghìn và năm 2013 có lẽ phải đến 1930 nghìn. Tuy rằng nhờ kế họach hóa gia đình, Thái Bình là một trong vài tỉnh có tốc độ tăng dân số vào mức thấp nhất cả nước. Hai đặc điểm khác của dân số tỉnh nhà là mật độ dân số Thái Bình thuộc lọai đông nhất cả nước, 5.1 lần hơn mật độ trung bình cả nước vào năm 2000; trong kết cấu dân số, số nữ 52.2 % cũng nhiều hơn số nam 47.8 %. Trong thời gian Chiến Tranh Việt Nam - Nam Bắc tương tàn, 200 000 thanh niên Thái Bình đã tòng quân, có mặt khắp chiến trường.( ? )
Phân chia Hành chánh
Tỉnh Thái Bình được thành lập ngày 21 tháng 3 năm 1890 . Địa bàn tỉnh năm đó gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xương ( tách ra từ tỉnh Nam Định ) và huyện Thần Khê ( tách ra từ tỉnh Hưng Yên và nhập vào phủ Thái Bình). Ngày nay gồm một thị xã tỉnh lỵ là TP ( ? ) Thái Bình và 7 huyện là Hưng Hà, Quỳnh Phụ ( Qùynh Côi ), Thái Thụy ( Diêm Điền ), Đông Hưng, Vũ thư, Kiến Xương và Tiền Hải. Năm 2000, dân số thị xã tỉnh lỵ Thái Bình là 138.700 người. Dân số các huyện đều trên 200 000 người năm đó. Đông nhất là huyện Thái Thụy 267 000 và ít nhất là huyện Tiền Hải 204 000. Tộc dân Kinh hầu như chiếm hết tổng số dân, chỉ còn chút ít người Thái, người Tày, người Hoa . ..
Địa hình
Thái Bình là một tỉnh không có núi rừng. Nhìn chung, địa hình bằng phẳng, thấp dần từ Bắc xuống Nam. Nhưng ở mỗi khu vực, lại có nơi đất trũng hay gò cao hơn so với địa hình chung, độ cao so với mặt biển là từ 1 mét đến 2 mét. Vùng cao trên 2m chiếm diện tích nhỏ. Địa hình đồng bằng Thái Bình chia ra ba thể dạng :
- Đồng bằng tích tụ cao Kiến Xương, Vũ Thư chủ yếu trải ra giữa sông Hồng và sông Trà Lý và mới được hình thành. Đất thấp, phần lớn có cao độ dưới 1m, xen kẽ với các dải cồn cao 1-2m. Nếu không có đê biển và đê sông thì hằng ngày vẫn bị ngập khi triều cường.
- Đồng bằng tích tụ thấp Quỳnh Côi là dạng đồng bằng tích tụ phù sa mới, thấp, phát triễn ở những nơi ít được dồi đắp phù sa, do bản thân con sông chảy qua có ít phù sa, hoặc ở vào nơi tiếp giáp giữ a hai lưu vực nên nước sông đến đó đã giảm lượng phù sa.
- Đồng bằng duyên hải Tiền Hải , Thái Thụy là vùng châu thổ sông Hồng rỏ rệt. Đất mặn chiếm đa số diện tích, rồi đến đất cát trên các dải cồn và cuối cùng là đất phèn. Chủ yếu làm ruộng hai vụ , ven biển có đồng cói và rừng ngập mặn.
Các bải cát và các cồn cát ven biển phân bố chủ yếu ở rìa phía Đông, Đông Nam hay Đông Bắc. Các cồn nổi là cồn Đen, cồn Thủ, cồn Vành. Nông dân đã trồng các rừng cây phòng hộ để cố định các cồn cát , (không cho cát bay, cát di động vào phía trong, lấp cạn các đầm nuôi thủy hải sản ), lấy gỗ làm vật liệu xây dựng, lấy củi đốt, đồng thời tạo cảnh quan tươi đẹp cho vùng biển.
Hình thành đất Thái Bình gắn liền với quá trình bồi tụ, lấn ra biển. Làng Kỳ Bá ở ven thị xã Thái Bình ngày nay, vào thế kỷ thứ 10 còn là cửa biển có tên gọi la “ Kỳ bồ hải khẩu”. Từ thế hệ này qua thế hệ khác, dân Thái Bình đã kiên trì quai ( đắp vòng bao) đê lấn biển, đắp đê ngăn nước, xây cống bỏ kè, san ghềnh lấp trũng, khai hoang vỡ hóa lập tỉnh. Từ năm 1828 đến năm 1985, diện tích quai đê lấn biển là 7787 ha. Từ năm 1960 đến năm 1990, lấn thêm được 4068 ha.
Khí hậu
Khí hậu Thái Bình là nhiệt đới gió mùa ẩm thấp. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23- 240C . Nhiệt độ thấp nhất là 40 C và cao nhất là 380C. Số giờ nắng trong năm là từ 1600 đến 1800 giờ. Lượng mưa từ 1400 đến 1800mm. Nhờ vị trí ven biển nên khí hậu Thái Bình có vài sắc thái riêng. Mùa đông thường ấm hơn các tỉnh năm sâu trong đất liền. Nhưng ngày giá lạnh mùa đông( từ tháng11 đến tháng 4 ) thường không kéo dài liên tục mà xen kẻ những ngày ấm áp. Mùa hè ( từ tháng 5 đến tháng 10 ) tuy nóng nực, nhưng có những ngày mát dịu, nhờ gió biển thổi không khí mát mẽ vào buổi chiều.
Thủy văn
Thái Bình là một tỉnh có sông nước bao quanh. Một mặt là biển, ba mặt khác là sông Hồng, sông Luộc và sông Hóa. Giữa tỉnh là sông Trà Lý dài 67 km, phân chia tỉnh ra 2 phần: 4 huyên phía Bắc, 3 huyện và thị xã tỉnh lỵ phía Nam. Các sông đổ ra biển qua các cửa Thái Bình, Diêm Điền, Trà Lý và Ba Lạt. Sông ngòi có độ dốc nhỏ, trung bình 0,02- 0.05 m /km. Độ rộng lòng sông có nơi tới 3km. Chế độ dòng chảy của sông Thái Bình chịu ảnh hưởng dòng chảy của chế độ sông Hồng. Mùa lũ, từ tháng 6 đến tháng 10, chiếm 75% lượng nước/ năm. Mùa kiệt từ tháng 11 đến tháng 5, chiếm 25. Ngoài hệ thống sông ngòi, Thái Bình còn có nguồn nước khoáng thiên nhiên ở độ sâu 450m, trữ lượng lớn thuộc huyện Tiền Hải; ở đây đã xây dựng nhà máy nước vô chai Vital.
Đất đai
Đất đai Thái Bình có các nhóm sau đây: đất mặn, đất cát ven biển, đất phèn chua, đất phù sa và đất bạc màu, đất bị xói mòn. Đất mặn phân bố ở vùng các cửa sông , ven biển và những chỗ thấp trũng trong và ngòai đê. Thuốc nhóm chánh Đất Glây Dystric Gleysols, có thời gian ngập úng trên 6 tháng còn có tên là đất gley chua, có phản ứng rất acid ở tầng đất mặt, dung tích hấp thu - hóan chuyễn thấp và nghèo dưõng chất. Hay nhất là mau lẹ trồng rừng ngập mặn: tạo môi trường sinh thái, tạo các đầm nuôi trồng thủy sản, tạo điều kiện cho quá trình lắng đọng phù sa mau lẹ hơn ...Đất cát ven biển phân bố trên các cồn cát duyên hải cũ, thường có địa hình cao hơn độ cao đồng bằng. Phần lớn các dân cư trong vùng đều tập trung trên địa hình cao nhóm đất này. Đất nhẹ, ít độ phì nhiêu tự nhiên, tính chất giữ ẩm độ, giữ mùn kém, nhưng đất tơi xốp, thóang khí, dễ canh tác, dễ điều chỉnh độ phì nhiêu, thích hợp với nhiều lọai cây trồng. Chung quanh các điểm dân cư là vườn cây ăn trái, vải ,cam, chanh… cho thu nhập cao hơn các cây trồng khác . Riêng trồng hòe có giá trị cao nhất, vì cây không chiếm đất, có thể trồng phân tán hai bên các trục giao thông, dọc theo các kinh mương thủy lợi, các sân trường, cơ quan, bệnh viện, nhà nghĩ dưỡng như ở Tiền Hải, Thái Thụy. Việt Nam kiểm kê 4 lòai cây hòe tông Sophora, họ thực vật phụ - đậu Papilionoideae. , Bờ biển Nam Bộ chỉ có một lòai là hòe lông Sophora tomentosa ở Côn Sơn Phú Quốc. Ba loài kia là hòe Bắc Bộ Sophora tonkinese, một đại mộc nhanh lông mịn vàng, hoa vàng; hòe Nhật Bổn Sophora japonica, nhánh không lông ,hoa trắng; hòe mốc Sophora velutina ( S. glauca ), một tiểu mộc, trái lông vàng vàng, hoa cũng vàng. Loài trồng nhiều nhất ở đây có lẽ là hoè Nhật Bổn, vì hoa chứa rutin giúp vi huyết quản cứng chắc, cầm máu, trị trĩ, trị ung nhọt, chóng mặt; lá làm thuốc xổ, trị kinh phong, trái chống thụ tinh, chống lạc thai, trị băng huyết, chứa alcaloid chống bướu. Đất phèn phân bố chủ yếu ở huyện Thái Thụy. Đất nặng , nhảo dẻo khi ướt, cứng rắn và nứt nẻ khi khô, thường có lớp sét “ cứt mèo - catclays” màu vàng bám trên mặt đất hay trong khe đất, và cần luôn luôn giữ cho đất ngập nước để phèn khỏi trồi lên mặt đất ... Những nơi ít phèn, thủy lợi tưới tiêu tốt, thau chua rữa mặn dễ dàng, trồng lúa vẫn cho năng xuất cao . Đất phù sa chủ yếu để trồng lúa, nếu có hệ thống dẫn thủy nhập điền thuận lợi , năng xuất lúa từ các thập niên 1980- 2000 vẫn từ 5-7 tấn/ha và có thể đến 8- 10 tấn/ ha. Đất phù sa Sông Hồng tỉ lệ sét chiếm 20- 25 % , thịt khỏang 50% , pH trung tính 6.5 - 6.7, giàu cation kiềm thổ, hàm lượng hửu cơ khá 1.3 - 2.0% …. là nhóm đất tốt. Đất phù sa sôngThái Bình có màu xám, nghèo hơn đất phù sa sông Hồng, chua hơn pH 4.5 - 5.0, ít hửu cơ hơn …, cũng có thể sử dụng trồng nhiều lọai cây khác nhau, nhưng muốn đạt năng xuất cao, cần phải bồi dưỡng cải thiện thêm và tăng cường phân bón. Đất bạc màu và đất xói mòn là đất thịt nhẹ cát pha. Phản ứng acid chua pH 5.0 %, rất nghèo hửu cơ ( 0.8- 1.0% ), hàm lượng đạm, lân, ka lium - bồ tạt đều nghèo. Nhóm đất này không thích hợp cho trồng lúa, nhưng có thể trồng một số hoa màu như đậu- đỗ, đậu phụng ( lạc ) , mè ( vừng ), rau và một số lọai cây ăn củ.
Tài nguyên biển
Thái Bình có khỏang hơn 10 000 ha mặt nước ( ngọt, mặn, lợ ) có khả năng nuôi trồng nhiều lòai thủy sản. Lảnh hải Thái Bình lên đến vài nghìn km2. Bờ biển có 4 cửa sông, các bải ngang rộng, bằng phẳng, hằng năm phù sa các sông Hồng, sông Thái Bình, sông Trà Lý bồi đắp, lần dần ra biển như đã đề cập trên. Biển Thái Bình giàu cá và các lọai hải sản. Một số có giá trị cao như cá hồng Lutianus erythropterus ăn tươi , cá thu ( Scomberomorus sp., Rastrelliger sp.) thịt ngon, xếp trong hàng tứ qúi miền Bắc là cá chim, cá thu, cá nhụ, cá đé …
Tài nguyên khóang sản
Hai tài nguyên khóang sản Thái Bình đáng kể là mỏ khí dầu Tiền Hải, trử lượng 1263 triệu tấn, diện tích mỏ chừng 5 km2 , khai thác từ năm 1986 và năm 1987 sản lượng khai thác là 37.9 triệu m3. Gần đây tìm thấy thêm 7 mỏ dầu khí tại vùng Sông Hồng và có thể cả ở vùng biển quanh Hoàng Sa - Pracels Islands, một trong 7 vùng nước nhà đã chứng minh chứa nhiều dầu lữa và khí dầu khí Việt , trong đó gồm cả lảnh thổ, lảnh hải Thái Bình ( ?) . Cho nên Trung Quốc khát dầu, đã cố ý gửi dàn khoan xâm phạm lảnh hải Việt Nam và ngăn cản tàu Viêt Nam đánh cá và tìm dầu ở vùng Hòang Sa. Trử lượng than nâu cũng rất lớn trên 30 tỉ tấn, nhưng chưa khai thác, vì ở quá sâu 600- 1000m. Ngoàì nước khoáng đã vô chai, nhìn chung các tài nguyên khoáng sản khác nghèo nàn.
Phần II : Phát triễn Thái Bình
Cận đại hóa hạ tầng cơ sở
Mạng lưới giao thông Thái Bình khá thuận tiện. Đến năm 2000, Thái Bình đã có 3476km đường bộ các lọai : 41 km quốc lộ, 132 km tỉnh lộ, 540km đường huyện, 2763 km đường xã . Mật độ tỉnh lộ hiện nay lớn nhất nước, tính theo đầu người và theo diện tích. Các tuyến giao thông quan trọng như quốc lộ 10, tỉnh lộ 39A nối các tỉnh Nam Định, Ninh Bình và Bắc Trung Bộ với Hải Phòng cũng như với Quảng Ninh và là các tuyến ra vào Thái Bình, đã đuợc nâng cấp mở rfông theo tiêu chuẩn quoôc gai mới. Các tuyến nội tỉnh như đường 39 A, 39B và đường 218 cũng đã được cải tạo và nâng cấp. Các cầu Trà Lý, cầu Hồng Qùynh và tuyến đường nối liền hai huyện Tiền Hải và Thái Thụy đã hòan tất, đẩy mau khai thác tổng hợp vùng ven biển. Hệ thống sông Luộc, sông Hóa, sông Trà Lý và sông Hồng cũng giúp Thái Bình chuyên chở thuận tiện đường sông. Cảng biển thương mãi Diêm Điền vừa thiết lập, có thể cho các tàu trọng tải 600- 1000 tấn cập bến … Và các bến xếp dỡ hàng hóa ở thị xã Thái Bình, trên sông Trà Lý, Bến Hiệp …. đã được đầu tư xây dựng, nâng cấp.
Hệ thống cung cấp điện tỉnh nhà an tòan, ổn định, thõa mãn theo đúng yêu cầu các gia thất và cho sản xuất công nghệ. 100% gia thất Thái Bình đã có điện. Trung bình, mỗi xã có 5 hay 6 trạm biến điện và 10 km đường dây điện mọi kiểu. Tỉnh nhà cũng thuộc hàng đầu về điện hóa với số trạm biến điện và các đường dây điện nhiều nhất nước.
Hệ thống bưu điện và viễn thông đã được nâng cấp và tân tiến hóa với tổng đài điện thọai STAREX-VK có thêm 23 784 số mới, vừa được sử dụng . Mọi trạm viễn thông
đều được trang bị vệ tinh. Số điện thọai thuê là 37 680 ( 2.1 điện thoại cho 100 người ). Có cả thảy 29 trạm và 54 932 con số điện thọai thuê mua . Mọi truyền thông đều theo hệ thống E1 (cáp quang và cáp micrô). Mỗi ngày đều có nhật báo đến tại mỗi xã.
Dich vụ du lịch, danh lam thắng cảnh, danh nhân Thái Bình
Năm 1995, nông lâm ngư nghiệp chiếm 67.1 % GDP. Dịch vụ đứng thứ hai chiếm 19.5 %
Năm 1998, nông nghiệp trụt xuống chỉ còn 50.9 % GDP và dịch vụ đạt 35.4 %. Năm 2010, ba cơ cấu kinh tế Thái Bình ngang ngữa nhau ; nông nghiệp chỉ còn 37%, công nghệ 33% và dịch vụ 30% . Du lịch nhân văn, liịch sử Thái Bình, có khá nhiều tiềm năng. Năm 1998, cả tỉnh mới có 84, năm 2013 lên đến 261 di tích lịch sử văn hóa được Bộ Văn Hóa xếp hạng trong tổng số hơn 1400, phân bố khắp mọi huyện và thị trấn tỉnh. Đáng chú ý là Chùa Keo, tên chữ là chùa Thần Quang ở Vũ Thư, một tác phẩm tiêu biểu nghệ thuật kiến trúc Việt Nam. Theo kiến trúc sư Đặng Thái Hoàng, chùa khởi dựng vào đầu thế kỷ thứ 17, qua nhiều lần xây dựng lại, đợt trùng tu lớn nhất quyết định hình thức chùa Keo vào năm 1707. Thời vua Lý Thánh Tông đã có một chùa Keo cổ sơ ở ven sông Hồng. Giá trị Chùa Keo thể hiện ở nhiều mặt: tính tổng thể, và quy mô, công năng, sự kết hợp giữa kiến trúc với thiên nhiên, việc tổ chức không gian, trang trí, điêu khắc... Chùa xây dựng trên một khu đất rộng 20 ha, gồm 128 gian có đến 15 - 16 phần công năng tạo thành quần thể : cột cờ, sân lát đá, tam quan ngoài, ao trước chùa, tam quan trong, sân đất, chùa Hộ, chùa Phật, sân gạch tòa Giá Roi, tòa Thiên Hương,tòa Phục Quốc, tòa Thượng Điện, gác chuông, nhà Tổ. Trước đây, chùa có 154 gian .Từ đến năm 2000 đến nay có lẽ đã trùng tu thêm được 11 gian (? ). Gác chuông, đúc từ thời nhà Lê và khánh đá quý, là một kỳ công nghệ thuật kiến trúc gỗ ba tầng, chỉ cao 11.06 m, nhưng lại gây được ấn tượng đồ sộ. Sự liên hệ và phân cách hợp lý các lớp mái có đầu đao, đắp hình loan phượng của không gian các tầng dưới rộng trên hẹp, mà vẫn lưu thông thuần nhuyễn với nhau là một điểm trội kiến trúc gác chuông, một nguyên lý mỹ học kiến trúc không thể thiếu. Lễ Hội trong năm được tổ chức hai lần: Hội Xuân ngày 4 Tết âm lịch và Hội Thu các ngày 13- 15 tháng chín âm lịch. Ngòai chùa Keo, còn có thể viếng thăm thêm Đền Đồng Bằng ở Quỳnh Phụ còn có tên là Đền Đức Vua Cha Bát Hải, kiến trúc cũng đẹp đẻ , còn lưu giữ được nhiều đồ vật quý đời nhà Lý, đền Đồng Xâm ở Kiến Xương, thờ ông tổ nghề chạm bạc Nguyễn kim Lâu, còn lưu giữ sắc phong của vua Khải Định, chùa Đòan Túc , đình làng Thường Liệt …Ở huyện Hưng Hà là cung điện Long Hưng các mộ vua Trần, , tòa đại sảnh thờ học giả Lê Quý Đôn, đền Tiên La ( thờ Bát Nàn Vũ thị Thục, bà tướng của Hai Bà Trưng ), chùa Diệc. Làng Kháng chiến Nguyên Xá ở trung tâm huyện Đồng Hưng là một làng xưa cỗ nổi tiếng văn hóa sản xuất, văn minh vỏ trang, nghệ thuật bình dân và giáo dục hàn lâm. Tính cách tryền thống văn minh được các thế hệ cư dân duy trì và phát triễn qua nhiều thời kỳ lịch sử . Theo Thái Bình Portal ngày 7 tháng 7 năm 2014, đặc biệt vào thời Cách Mạng Giải Phóng Quốc Gia khỏi Thực dân Pháp cai trị, rồi sau đó chống cự bắn rơi 2 máy bay Mỹ ném bom và hải quân Mỹ đột kích. Thời chống Pháp Nguyên Xá thực thi mỗi làng là một thành trì đồn lũy, đã mộ dân đào 12 000 m3 đất địa đạo, hàng trăm mét hào sâu, bun- cơ và hàng rào tre quanh làng, đã can đảm đánh lui 184 cuộc xung kích lớn nhỏ của quân đội viễn chinh Pháp, giết được 312 lính Pháp. Nguyên Xá là nơi phát sinh “trò múa rối ở nước - water puppet” lối múa đầy đặc tính Việt Nam. Rừng Sát Thủy Trường rộng 400 ha, là một rừng nguyên sinh được bảo tồn nguyên vẹn. Rừng chứa nhiều chim quý hiếm như bồ nông - pelicans, Cò mỏ miệng dẹt như muổng, thìa- spoon bill, sếu trắng - white cranes , mòng biển đầu đen- black head sea gulls.. …. đúng là một điểm du lịch sinh thái khoa học, khảo cứu. Gần đó là đình làng An Cơ, huyện Thái Thụy, thành lập cùng một thời gian với làng Cỗ Trai ( TP Hải Phòng ) vào những năm đầu thế kỷ thứ 16. Đình có 44 cột: 12 cột đường kính đến 80 cm, 32 cột nhỏ hơn đường kính 60cm ; cơ cấu có thể làm cao thêm, hạ thấp xuống, tháo rời khung đem xây ở nơi khác. Các khắc chạm đình rất phức tạp . Ngòai ra đình còn có nhiều vật gỗ qúi như các cuộn sách gỗ xưa, các bảng quết sơn màu ngang, các câu đối cũ song song, các bàn thờ to lớn, sơn mài đỏ pha vàng kim và các bộ sưu tập 8 loại vũ khí thời xưa , các áo bất hợp pháp, áo đi rừng, tơ lụa … dùng làm vật rước kiệu Thái Bình ngày nay. Cung điện thờ thần Diêm Điền ở làng Đồng Tâm huyện Thái Thụy, theo truyền thuyết đã được xây dựng đời nhà Trần, trên đất Quảng Lang Trang. Tại làng một cô gái tên Nguyệt Ánh vừa đẹp vừa nết na. Lạ lùng là mỗi khi cô di chuyễn là có mây bay trên đầu. Do đó cô không dám ra ruộng muối vì sợ dân gian làm muối quở trách. Cha mẹ sắm cho cô môt đò thuyền nhỏ, chở muối đi bán. Một ngày nào đó, các đò thuyền Quảng Lang đang ngược dòng sông Nhị Hà, thì gặp thuyền Rồng vua Trần Anh Tôn. Thấy cô có nhiều điểm lạ, vua cho đưa cô về kinh đô. Sống một thời gian ngắn ở cung, cô muốn trở về thăm cha mẹ. Vua chấp thuận. Nhưng sau đó, cô mang bệnh và chết. Từ đó, dân làng gọi cô là Nữ Thần Muối ( Diêm ). Mỗi năm vào ngày cô chết 14 tháng 4 âm lịch, dân làng Quảng Lang tổ chức lễ hội nhảy điệu “ông Dung và Bà Đa” là những điệu múa xưa cổ nhât của dân Kinh- Việt . Vị trí đền kỷ niệm liệt sĩ Nguyễn Đức Cảnh, ở làng Diêm Điền ( Ruộng Muối ), xã Thụy Hải, nay là thị trấn Diêm Điền, huyện Thái Thụy. Cảnh là chủ tịch Phong trào Động viên Lao động, bị Pháp bắt ngày 4 tháng tư năm 1931 và đưa lên đọan đầu đài, chặt đầu ( ? ) ở Hải Phòng ngày 31 tháng 8 năm 1932. Làng Vườn Bạch Thuận ở kế cận sông Hồng gần Quốc lộ số 10 , cách thị xã Nam Định 5km và cách thị xã Thái Bình 13 km , thât sự gồm 2 làng cỗ là Thuần Vi và Bạch Tính. Trong quá khứ thập niên 1880, Thuần Vi làng trồng dâu , nuôi tằm nổi tiếng , cũng trồng ngâu aglaia ăn trái . Ngâu đã bị trái cây khác thay thế . Đât đai Bách Thuận vẫn thích hợp cho vườn cây ăn trái nay là cam quýt chanh , nhãn, táo ….và vườn hoa, cây kiểng ( cây hòe ). Từ năm 2001 ,Thái Bình cố hình thành cụm Đồng Châu huyện Tiền Hải gồm bãi biển Đồng Châu, Đền Bà , chùa Minh Châu, chùa Đồng Châu , khu di tích Nguyễn Công Trứ, cồn Vành, cồn Thủ cách đất liền 7km, nhà máy nước khóang Vital … Năm 2003- 2004, tỉnh nhà xây cầu Trà Lý và cầu Hà Mỹ, nâng cấp - tu bổ nhiều đường bộ dẫn tới những điểm du lịch then chốt như đường 220B tới các điêu tàn Chùa Keo ( Vũ Thư ), đường tới khu nghĩ dưỡng Đồng Châu ( Tiền Hải ), nâng cấp đường 217 , khúc đọan từ ngã tư đến Quỳnh Côi , bến Hiệp. Nâng cấp hàng trăm cây số km đường nông thôn dẫn đến các làng tiểu công nghệ, một số sản phẩm đã được Pháp đem trình bày ở Hội Chợ Đấu Xảo-Triễn Lãm Paris Expo, đầu thế kỷ thứ 20. Năm 1999, chỉ mới đón 63 387 ( có khi ghi là 88 240) lượt du khách trong đó mới có 682 khách quốc tế ) đến Thái Bình; năm 2005 đón 185 000 lượt khách và hy vọng các năm 2010 - 2013 đón 220 000 lượt.
Nông Nghiệp
Nông nghiệp vẫn còn đứng hàng nhất, đóng vai trò chủ đạo cơ cấu kinh tế Thái Bình, nhưng thành phần GDP giảm dần từ 67.1 % năm 1995, xuống 50.9 % năm 1998, và 37% năm 2010. Đáng lưu ý là hệ thống thủy lợi ở Thái Bình được xây dựng khá hòan chỉnh. Năm 2000 gồm 600 km đê sông đê biển, 200 cống dưới đê nối liền với 7870 km kênh mương lớn nhỏ, 270 cống- đập nội đồng trong đó có 2 cống lớn là cống Trà Lĩnh và cống Lân được phân bố ở phía Nam và phía Bắc của tinh, thuận tiện cho việc tưới nước và thoát thủy ( tiêu nước). Thái Bình cũng có mạng lưới điện phục vụ nông nghiệp, trải rộng khắp tỉnh với hơn 10 000 km đường dây cao thế và hạ thế , chạy các điểm bơm nước cơ khí nhỏ. Năm 2000 cả tỉnh có 102 800 ha đất nông nghiệp, chiếm 66. 9 % đấtr tự nhiên. Thái Bình đã khắc phục dần tình trạng độc canh ( lúa gạo ), thuần nông, bước đầu da dạng hóa cây trồng, vật nuôi và mở rộng ngành nghề, tăng dần tỉ trọng chăn nuôi giảm tỉ trọng trồng trọt. Lương thực là lọai cây trồng chủ đạo ngành trồng trọt . Năm 1995, cả tỉnh có 194 500 ha ( con số lớn hơn diện tích nông nghiệp kể trên, vì trồng hai vụ lúa mỗi năm ) giảm xuống chỉ còn 188 100 ha năm 1999. Nhưng sản lượng quy thóc ngày càng tăng từ 1.015 triệu tấn ( Niên giám Thống kê ghi là 966 4000 tấn lương thực có hạt-hột ) năm 1995, lên đến 1. 116 triệu tấn (Thống Kê ghi 1.081 triệu tấn ) năm 1999 .
Lúa là lọai cây trồng chánh . Năm 1939 là năm được mùa, năng xuất chỉ đạt 27 tạ lúa - thóc /ha cả năm . Năm 1966 đạt 5t /ha cả năm ( Thái Bình trồng 2 vụ mỗi năm diện tích gần bằng nhau :vụ Đông Xuân và vụ mùa một năm ). Từ năm 1975 đến năm 2000 , năng xuất lúa thường xuyên giữ vững từ 5.5 t dến 6.5tha cả năm ; năm 1999 đạt 6.2/ha cả năm , cao nhất nước vào năm đó . Nay thì mỗi một vụ lúa tỉnh nhà chiếm khỏang 84 000 ha năng xuất 6-7 tấn/ ha, nghĩa là 12- 13 tấn/ ha cả năm . Lúa gạo chiếm 7 % GDP của tỉnh, nên chánh quyền tỉnh đặc biệt chú trọng ngành sản xuất trồng lúa nước , hầu giữ mức bền vững sản xuấtlúa , chánh quyền đã xâyđắp nhiều hạ tầng cơ sở phục vụ nông thôn , tân tiến hóa tưới tiêu và máy móc nông nghiệp, vì tiền thuê máy gặt - đập cho kịp thời vụ trong một nghiên cứu trên các tiểu nông Thái Bình chỉ có 500 - 2000 m2 ruộng, đã tỏ ra là chi phí sản xuất lớn nhất, ngòai tiền mua lúa giống mới. Vị trí Việt Nam trở thành một nước xuất cảng gạo quan trọng chỉ mới phát triễn lại kể từ năm 1989 . Tình trạng này liên quan lớn đến tiến trào chánh sách phát triễn hột giống lúa mới, một nhập sản chánh của ngành trồng lúa. Tiến trào này xảy ra theo 5 giai đọan :
1 - Thời kỳ các thập niên 60 - 70 : đó là lai lúa, tuyễn chọn giống lúa thuần theo hình dạng cây lúa bên ngoài.
2- Thời kỳ thập niên1980: cố ổn định năng xuất bằng cách tuyễn chọn các giống lúa có khả năng kháng bệnh, kháng sâu quan trọng.
3- Thời kỳ thập niên 1990: phát triễn các giống cao năng- siêu năng hơn
4- Các năm 2000 - 2005: phối hợp các tính chất lúa cao phẩm và kháng sâu, kháng bệnh
5- Từ năm 2005 đến nay : cải thiện phẩm gía các giống siêu năng
Ngày nay, nghĩa là sau năm 2005, Thái Bình cũng như khắp nước, có 3 lọai giống lúa được nông dân trồng là lúa thuần - pure seed chiếm 60 - 70 % diện tích sạ cấy do các công ty hột giống chịu thi hành vài tiêu chuẩn phẩm gía của bộ Nông Nghiệp là hột giống không được bán ngòai bộ Nông Nghiệp. Nông dân có thể dùng hột giống thuần cấy trồng 2- 3 vụ. Lọai thứ hai là giống lúa lai - hybrid rice, sản xuất trong xứ hay du nhập từ Trung Quốc ( xem bài tỉnh Nam Định ). Thứ đến là hột giống địa phương. Các giống địa phương sử dụng ở Đồng Bằng sông Hồng là Tám xoan Thái Bình, Tám Xuân Đài, Tám đen Hải Phòng, Dự Hương v.v... nay có phần giảm đi nhiều. Năm 2013, nông dân miền Bắc chỉ còn dùng chừng 5 % giống địa phương. Các giống lúa Thái Bình dùng nhiều nay là CNR36 , TBR 1 và BC 15.
Thái Bình còn 40 000 ha trồng hoa màu lương thực trên ruộng lúa, nhờ từ năm 1970 đã chuỹen đổi vụ lúa Chiêm thành vụ lúa Xuân, giải tỏa đất ruộng trồng rau- màu trên chân ruộng hai vụ lúa . Nhưng diện tích hoa màu chánh là ngô - bắp ( 5000 ha năm 2000) , khoai lang ( 10 000 ha ) … đã giảm . ti>nh thay thế một phần nào bằng rau đậu cao cấp phục vụ đô thị và nhắm xuất khẩu : dưa chuột , cà chua , khoai tây, bắp cai, nấm… Trồng rau thực phẩm đã chiếm 10 000 ha ở các vùng ven sông thuộc các huyện Quỳnh Phụ , Hưng Hà , Vũ Thư , Đông Hưng . Các cây công nghiệp như đay,. cói , dâu tằm , mía, thuốc lào... ngòai đậu phụng ( lạc năm 2000 diện tích gần 3000 ha ), đậu nành ( đổ tương trên 3000 ha ) đều sa sút. Năm 2000 chỉ còn trồng 400 ha đay tập trung ở 3 huyện Hưng Hà, Vũ Thư, Qùynh Phụ , sản lượng 1400 tấn, trụt xuống từ 5000 ha những năm trước. Cói đồng và cói biển làm chiếu… tập trung ở các huyện ven biển Tiền Hải và Thái Thụy cũng sa sút nhiều, vì biến động thị trường Liên Xô cũ; diện tích có lúc lên đến 2500 ha, năm 2000 chỉ còn 300 ha, sản lượng 4000 tấn.
Về chăn nuôi, đàn trâu liên tục giảm từ trên 21 000 con năm 1995 , trụt xuống 12400 con năm 2000. Ngược lại đàn bò lại có khuynh hướng tăng từ 40 000 con năm 1995 lên 54000 con năm 2000 . Năm 2000, tỉnh có trên 600 000 con heo ( lợn ), nhưng chưa phát triễn được xuất khẩu như Thái Lan . Chăn nuôi gia cầm, năm 2000 ước tính trên 5 triệu con, phát triễn mạnh mẽ nhất là nuôi vịt , nhờ Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển có nhiều sông ngòi, đầm hồ, ruộng nước. Nghề nuôi ong cũng phát triễn mạnh mẽ ở Thái Bình. Mỗi năm thu được 40 -60 tấn mật ong và hàng chục ki lô sửa ong chúa.
Nuôi cá nước ngọt đã phát triễn hầu khắp các huyện. Năm 1999 diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản là 8250 ha, sản lượng 15 055 tấn mà 8777 tấn là cá. Món cá ngon Thái Bình là cháo cá Quỳnh Côi. Sản lượng nuôi tôm năm đó cũng còn rất thấp là 407 tấn. Một ngành có cơ phát triễn mạnh là cua đất bùn - mud crab hay cua biển cạn ( ? ) Scylla serrata. Nuôi cua bùn sử dụng sinh thái các rừng sát - mangroves trồng bần, sú , vẹt, đước... làm vùng độn chống bảo tố. Các ao đất nằm giữa đê chánh và một vùng rừng sát, duy trì phẩm giá nước nhờ nước thủy triều xảy ra thiên nhiên. Mọi ao là một cống đơn giản cho nước ra vào thay đổi và có rào ngăn cua thoát. Nhờ lắng đọng phù sa sông Hồng, mỗi năm Thái Bình tăng thêm 250 - 300 ha “ đất mới bờ biển”, rất thích hợp làm ao nuôi cua, có nước bờ biển đầy đủ . Nước ngọt sông Hồng ở đây tạo ra nước lợ lý tưởng cho nuôi trồng thủy sản, không bị ô nhiễm vì đô thị hóa hay nông nghiệp tân tiến.
Công nghiệp- xây dựng
Từ năm 1994 đến năm 1998, công nghiệp và xây dựng Thái Bình chậm phát triễn, chiếm tỉ trọng khiêm tốn. Năm 1995, công nghiệp chiếm 8.7 %, năm 1998 là 9.1 % , xây dựng 4.7 % năm 1995 và 4.6 % năm 1998. Năm 1998, cả tỉnh có 53 942 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong số này 49 cơ sở quốc doanh (2 do trung ương quản lý và 47 địa phương quản lý) và chỉ 3 cơ sở có vốn đầu tư ngọai quốc. Năm 1998, công nghiệp thu hút 133 246 lao động, chủ yếu ở thị xã, thị trấn ở sản xuất tiểu công nghệ, phần lớn ngòai quốc doanh. Các ngành chủ yếu là dệt, da, may mặc ( chiếm 38.2 % tổng giá trị sản lựợng), công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm ( 18.2% ), công nghiệp cơ khí, điện tử hóa chất (9.1% ) công nghiệp vật liệu xây dựng ( 15.9 % ). Công nghiệp cơ khí sản xuất được mỗi năm hàng trăm máy bơm nước, máy tuốt lúa, máy nghiền thức ăn gia súc, máy chà xát gạo, máy làm gạch-ngói , máy xe cói, đại tu và trung tu hàng trăm ô tô,hàng trăm máy kéo nông nghiệp , sửa chư/a hàng nghì tấn phương tiện vận tải như xà lan , ca nô, tàu kéo , tàu đánh cá biển . Công nghiệp chế biến nông sản chủ yếu là sản xuất bánh kẹo, đường, nước mắm, giấy, hàng dệt, hàng may mặc. Năm 1998 cũng đã sản xuất được khí đốt ( 21.3 triệu m3 ),muối ( hơn 10 000 tấn ), bia ( 10.5 triệu lít ), thảm đay ( 190 nghìn m 2) chiếu cói ( 8 nghìn m 2 ) . vôi( 132 triệu tấn ), sứ dân dụng 3.8 triệu sản phẩm ) ….
Nhưng 10 năm qua, tỉnh Thái Bình đã có những thành quả tốt đẹp hút dẫn đầu tư phát triễn công nghiệp . Thời gian 2006 -2010, tăng trưởng GDP tỉnh rất cao, đặc điểm cơ cấu kinh tế tích cực làm tăng tỉ trọng công nghiêp và xây dựng, làm giảm nông nghiệp ở GDP. Giá trị sản xuất công nghiệp ( tính theo giá cố định 1994) tăng thêm 25.2 % mỗi năm vào các năm 2006- 2010, đạt 10 194 tỉ đồng VNĐ năm 2010, nghĩa là 3.08 lần hơn năm 2005 . Năm 2012, sản xuất công nghiệp đạt 12 636 tỉ đồng VNĐ, tăng thêm 8,24 % so với năm 2011. Theo quyết định 09/2012/ QD -UBND, Thái Bình khuyến khích đầu tư vào công nghệ kỷ thuật chính xác, điện tử, các ngành hổ trợ công nghệ, dược phẩm, thõa mãn được các tiêu chuẩn GMP quốc tế, chế biến nông sản, xây cất hạ tầng cơ sơ cho các vùng công nghệ hóa, phát triễn cao kỷ và các sản phẩm cao kỷ .Năm 2010, Thái bình đã thiết lập 5 vùng công nghệ IZ hay công viên công nghệ IP: công viên Diêm Điền ở huyện Thái Thụy có tổng diện tích là 50 ha; Công Viên Nguyễn Đức Cảnh diện tích là 102 ha ở xã Xuân Phú và phường Tiền Phong thị xã Thái Bình : Công viên Phước Khánh diện tích 300 ha ở phường Phước Khánh cũng ở thị xã Thái Bình ; Công viên Tiền Hải diện tích 128 ha ở huyện Tiền Hải, Công viên Tiền Phong 56 ha, ở phường Tiền Phong, thị xã Thái Bình ... và vừa được chánh phủ chấp thuận cho thiết lập thêm 6 công viên công nghệ Industrial Park, IZ nữa : An Hòa ( 400 ha ), Gịa Lê ( 100ha ), Đồng Tử ( 50 ha ), Thanh Nê ( 50 ha ), Diêm Điền ( 100 ha ) và Mỹ Xuyên ( 100 ha ) .
( Irvine , Nam Ca Li - Hoa Kỳ, ngày 11 tháng 7 năm 2014 )