Phần 2
II - Lạm bàn phát triễn Thừa Thiên- Huế
Thắng tích kiến trúc Huế xưa
Năm 1802, Gia Long lên ngôi vua đóng đô ở Huế. Suốt 143 năm các vua Triều Nguyễn đã cho xây dựng ở Huế và vùng ven một hệ thống công trình đồ sộ và hòan chỉnh, bao gồm thành trì, cung đình, lăng tẩm, đền miếu, nhà chùa phố phường , nhà vườn … mang sắc thái đặc biệt, giá trị nghệ thuật cao, một kỳ quan Đông Nam Á. Tháng 12 năm 1993 , Thành Citadel Huế đã được Cơ Quan Văn Hóa Hóa Quốc tế UNESCO công nhận là Vị trí Di Sản Văn Hóa Thế Giới - World Cul tural Heritage Site. Tháng 11 năm 2003, lại tuyên bố Nhã Nhạc Cung Đình Huế -Royal Musical là Di Sản Tinh Thần Văn hóa Thế giới – World Intangible Cultural Heritage.
Theo kiến trúc sư Đòan Đức Thành ( 2000 ) và các bổ sung của vài tác giả khác, Thành Huế thiết lập trên một khu đất bằng phẳng, cao ráo, bờ phía bắc sông Hương, bố cục theo truyền thống Việt Nam, gồm 3 tòa thành cổ kính , khép kín lồng nhau. Phòng Thành là thành phòng ngự ngòai cùng, mặt bằng hình vuông chu vi 9950 m, cao 6.5 m, rộng 25 m. Mặt trước xoay về hướng Nam, có dòng Hương Giang bao bọc, núi Ngự ( Bình ) và núi Bân làm bình phong. Con sông đào tên là Hộ Thành ( sông An Cựu ? ), đưa nước sông Hương chảy qua 3 mặt chân của Phòng Thành, rồi lại trở về sông Hương. Kiến trúc phòng ngự có ảnh hưởng thành Vauban ( Vô Băng ) của Pháp. Góc thành phía Bắc hướng ra cửa biển, có một thành phụ hình mang cá, gọi là Trấn Bình . Vòng Thành Giữa nhỏ hơn, gọi là Hòang Thành, Hòang Cung hay Đại Nội . Mặt bằng Hòang Thành gần vuông vức, chu vi 2450m, cao 4m, tường gạch dày 1m. Bốn xung quanh có hào nước Kim Thủy Trì bảo vệ. Mỗi mặt thành có một cửa ở chính giữa: cửa Ngọ Môn phía Nam, cửa Hòa Bình phía Bắc, cửa Hiển Nhơn, Chương Đức, hướng Đông – Tây.
Kiến trúc dinh thự Cung Đình Huế có đặc điểm là không vươn lên cao mà dàn trải theo bề rộng, hòa nhập vào thiên nhiên. Hơn 140 công trình lớn nhỏ trong 9 khu vực riêng biệt, cách nhau bằng hàng rào và cổng, vẽ trang trọng nghiêm mật đúng độ cho từng công trình. Các công trình quan trọng trong Kinh Thành được bố trí đối xứng trên trục trung tâm Nam Bắc, tức đường Dũng Đạo, gồm có từ Nam sang Bắc:
-Kỳ Đài, vua Gia Long cho đắp năm 1807,gồm 3 tầng, tầng dưới cao 5.60 m, tầng giữa cao hơn chút ít 5.80m, tầng trên cao cao nhất 6m. Cột Cờ gồm 2 đọan bằng gỗ, từ chân lên ngọn cao 29.52 m. Trên Kỳ Đài, xây 8 nhà để súng và 2 điếm canh. Ngày 23 tháng 5 năm 1885, Kinh Thành thất thủ: 7 giờ sáng vua Hàm Nghi xuất bôn và khỏang 8 giờ sáng, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, cờ tam tài Pháp màu xanh, trắng, đỏ, phấp phới trên Kỳ Đài trước Ngọ Môn, dấu hiệu chánh thức Việt Nam cả nước nô lệ Pháp cả Trung lẫn Bắc Nam
- cửa Ngọ Môn, sân Đại Triều Nghi, điện Thái Hòa, sân Bái Mạng, điện Cần Chánh, điện Càn Thành, cung Khôn Thái, điện Kiến Trung, cửa Hòa Bình. Nơi ở sinh họat của nhà vua như điện Càn Thành, điện Kiến Trung, điện Thọ Ninh, cung Khôn Thái, cung Diên Thọ, cung Trường Sanh, Duyệt Thị đường, Thái Bình lâu, Nhật Thành lâu, vườn Thượng Uyển… là hệ thống các công trình nội dung phong phú, chứa đựng nhiều yếu tố nhà ở dân gian. Trong Hòang Thành còn có 5 miếu thờ. Thế Miếu là nơi thờ 10 vua Triều Nguyễn. Nổi bậc nhất là Hiển Lâm Các, cấu trúc gỗ truyền thống ba tầng cao , tương đương với Ngọ Môn là công trình đẹp và cao nhất Hoàng Thành. Ở đây còn có kiệt tác Cửu Đỉnh- Dynastic Urns , 9 cái đỉnh đồng, mỗi cái mang một chữ trong miếu hiệu của một ông vua nhà Nguyễn: Cao, Nhân, Chương, Anh, Nghị, Thuần, Tuyên, Dụ, Huyền. Mỗi đỉnh có hàng chục hình chạm nổi, thể hiện vũ trụ, thiên nhiên rất đặc sắc.
Lăng tẩm các vua Triều Nguyễn được xây dựng phía Nam Kinh Thành Huế bên dòng sông Hương, trong vùng gò đồi, có sông suối, khe, hồ, thông cao bóng cả. Cả 7 ngôi lăng xây dựng trên đồi, hội đủ các nguyên tắc “ phong thủy”: “ Sơn triều thủy tựu” “ núi án núi chầu” “ tả long hửu hổ” . Quy mô các lăng đều rộng lớn, nhiều lăng có tường thành bao bọc, phối trí tài tình giữa kiến trúc và thiên nhiên. Khởi dựng từ khi vua đang trị vì, cho nên trong kiến trúc lăng tẩm, có sự kết hợp giữa sống và chết, đạo và đời. Lăng tẩm nào cũng có 2 khu; khu lăng để chôn thi hài khi vua qua đời, khu vực tẩm dành riêng cho nhà vua khi còn sống, thỉnh thỏang đến chơi thăm. Đặc điểm này đến thời Nguyễn mới có. Nhiều công trình mang nội dung sinh họat được xây dựng trong khu vực này, như thể một hành cung thứ hai: các điện để làm việc, ăn, ngủ ; minh lâu , đình tạ, hồ đảo, vườn hoa để vua thưởng ngọan, có cả các viện cho cung tần mỹ nữ đến chầu hầu.
Lăng Gia Long nằm giữa rừng tông bao la bố cục thành 3 khu : lăng ở giữa, điện thờ bên phải và bia công đức bên trái. Các công trình gần gủi với kiến trúc truyền thống, hài hòa với cảnh chung quanh, tạo một vẻ đẹp hùng tráng. Lăng Minh Mạng thể hiện một quần thể kiến trúc trật tự nghiêm ngặt. Các công trình chánh đều nằm trên trục đường Thần Đạo, từ dưới cao dần lên là cửa Đại Hồng Môn, Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân, Minh Lâu đến Lăng ở gò đất cao nhất. Hai bên đường Thần Đạo, có tượng đá, sân vườn, cây cảnh, hồ nước cầu đường đối xứng nhau từng đôi một, tạo một vẻ trang nghiêm, sâu lắng. Lăng Tự Đức gồm khu điện thờ ( nơi nhà vua sinh họat khi còn sống ) và khu bia mộ đặt gần nhau, cùng hướng ra con đường xuyên suốt, chạy ngoằn ngòeo từ cửa Vụ Khiêm, men theo bờ hồ Lưu Khiêm ở phía trước. Các công trình kiến trúc xen trong hoa lá, soi bóng xuống mặt hồ êm dịu và thơ mộng. Lăng Khải Định trên núi Châu Re không cây xanh, không mặt nước. Tầng tầng lớp lớp kiến trúc dày dặc và chóang ngợp, một màu xám xi măng. Những mảnh tranh tường mang hình tứ linh- tứ quý, ghép bằng gốm màu hết sức tinh xảo, tạo những cảnh sắc rực rỡ, linh động. Các lăng khác : lăng Thiệu Trị thanh thóat, lăng Đồng Khánh xinh xắn, lăng Dục Đức khiêm nhường. Còn lăng thứ 8 Duy Tân , mới xây dựng năm 1987, vẻ đẹp giản dị trong sáng.
Ở Huế còn có gần 100 ngôi chùa. Nổi tiếng nhất là Chùa Thiên Mụ, trên đồi Hà Khê làng An Ninh bên bờ sông Hương. Từ năm 1601 là năm khởi dựng đến nay, đã nhiều lần hư hỏng và tu sữa, bổ sung. Chùa có tường vây 4 mặt, chia ra làm 2 khu. Phía ngòai, ở trên độ cao 49 bậc cấp, có cổng trụ tam quan. Từ đây mở ra một khỏang sân rộng, nổi bật trong tầm nhìn là Tháp Phước Duyên, cao 7 tầng và đình Hương Nguyện, xây dựng năm 1846, cạnh đó là lầu chuông và nhà bia. Qua khu tưởng niệm là khu vực các điện thờ Phật ở phía sau, nối tiếp nhau trên một trục dọc của Chùa. Gồm các điện Đại Hùng, Địa Tạng, Quán Âm và nhà trai cùng với sân vườn đẹp. Chùa Thiên Mụ có nhiều tượng đẹp, đặt trên 7 tầng tháp Phước Duyên và điện Đại Hùng. Trong lầu chuông có quả chuông đồng, đúc từ thế kỷ thứ 18, nặng hơn 2 tấn, cao 2.5 m. Bia đá đặt trên lưng rùa đá cao to, chạm trổ tinh vi.
Đình làng Huế không nhiều. Tiêu biểu nhất là các đình Kim Long, Lại Thế, Dương Nổ.
Có lẽ không nên quên 6 dãy phố xưa. Theo cuốn Thừa Thiên Phủ, mục Phố thị, ngòai quách kinh thành các nhà cửa khu phố đều lợp bằng tranh, chen chúc và thường bị hỏa họan. Vua Gia Long cho dân gian cùng người Tàu - Hán Thanh sửa sang, lợp ngói lại khu phố Đông Bắc Kinh Thành gần chỗ xây Trấn Bình Đài (đồn Mang Cá). Năm 1837, vua Minh Mạng sai Thống chế Lê Văn Thảo đốc thúc binh lính cất nhà, lợp ngói ba khu phố Gia Hội Đông Ba ( Đông Gia ) và Đông Hội. Khu Gia Hội gồm 89 gian nhà. Khu Đông Ba và Đông Hội , dọc theo sông Tả Hộ Thành, chung lại gồm 399 gian, dài hơn 2 dặm. Dân gian, kể cả người Tàu, cũng được phép xây cất thêm 149 gian phố theo kiểu mẩu bộ Công, nghĩa là phố trệt không lầu, tường gạch quét vôi, lợp ngói, mặt trước làm cửa gỗ có cánh, hàng hiên có cột trụ,vách sau xây gạch có trổ cửa tò vò, cứ 3 gian ngăn một tường gạch v.v….Dân Huế quen gọi lối kiến trúc này là phố ba gian. Phố Chợ Dinh, dọc theo bờ sông Hương dài hơn 3 dặm đến dinh thị Hạ Ấp của Thọ Xuân Vương. Gồm 8 hàng. Chính giữa dãy phố là con đường lớn, tức là đường Chi Lăng sau này. Phố chợ Dinh sầm uất nhất Kinh sư. Ngày trước chưa có phố Huế, chỉ có phố Chợ Dinh. Đi Dinh có nghĩa là đi Huế. Trong lúc Kim Long đã thành xưa cũ, thì Chợ Dinh tiêu biểu cho mới mẽ tân kỳ. Hoa Kiều tại phố Chợ Dinh đã đóng góp phần lớn cho nền kinh tế thành phố Huế. Nay phố Chợ Dinh vẫn còn, nhưng dân Huế lại gọi là phố Gia Hội và phố Chi Lăng. Đưới triều Đồng Khánh, vua chuẩn cho những lô đất trống từ xưa và lô đất vừa dẹp trại quân ( là trại Long Vũ, Pháp đốt khi kinh thành thất thủ? ) ở hai bên tả hửu ngòai quách cửa Chánh Đông( là một khúc của Đông Ba ?) cho quan và dân làm Phố Cửa Đông. Quy thức kiến trúc kiểu mẩu đo đạc đều do bộ Hộ và bộ Công xếp đặt, phân định mẩu mức cho từng đơn xin. Phố gồm 3 dãy nhà và 2 con đường song song , lấy chợ Đông Ba gần cửa Chánh Đông làm Trung tâm. Năm 1890, triều Thành Thái, dưới áp lực của Pháp Bảo Hộ phải chấp thận cho xây nhà 2 tầng. Phố Cửa Đông cũng là phố đầu tiên tại Huế có vỉa hè, lề đường và lát đá theo kiểu Tây Phương. Phố Trờng Tiền bắt đầu từ phía Tây cầu Gia Hội, dọc theo bờ sông Hương theo hướng Tây đến ngang trước cửa Đông Nam tức là của Thượng Tứ sau này. Trước phố có cho làm một con đường rộng rãi, có vĩa hè, lề đường, lát đá. Đường phố phân chia hai chiều bằng một dãy cù lao nhân tạo, bờ đúc xi măng, trồng hàng cây phượng vỹ theo kiểu Tây Phương. Thời Đệ Nhất Cọng Hòa, thời tổng thống Ngô Đình Diệm dời bỏ, làm rộng con đường và đặt tên là đườngTrần Hưng Đạo.
Những thắng tích cũ khác nên kể thêm ra là:
- Phú Văn Lâu , vua Gia Long cho thiết lập năm 1819, phía trước Kỳ Đài, sát bờ sông, trước chỉ dựng đình, gọi là bảng đình, dùng làm nơi niêm yết các chiếu, thư, dụ, chỉ nhà vua. Trước đình có dựng bia và làm lệ Khuynh Cái , Hạ Mã có nghĩa là nghiêng lọng , xuống ngựa. Sau năm 1954, Phú Văn Lâu là nơi tổ chức các buổi lễ lớn , như ngày quốc khánh 26 tháng 10 thời đệ nhất Cọng Hòa , ngày quân lực v.v…. Năm 1972, Phú văn Lâu tiếp nhận đồng bào tị nạn từ Quảng Trị, vừa thóat khỏi tử thần trên con đường độc đạo quốc lộ sô 1, biệt danh là Đại Lộ Kinh Hòang;
-Cầu Trường Tiền ngang qua sông Hương phía Đông Nam Kinh thành Huế , nối con đường thiên lý Bắc Nam - Quốc lộ 1A, khởi công năm 1897 và hòan tất năm 1899 vào triều vua Thành Thái. Thời Đệ nhất Cộng Hòa cải tên là cầu Nguyễn Hòang dùng trong văn thư, không mấy ai biết đến, cũng như tên cầu Thành Thái may lắm còn vài ông già xưa hòai cỗ gọi tên này.
- Cầu Bạch Hổ cũng khánh thành triều Thành Thái năm 1904 năm, nối tiếp qua Cồn Dã Viên, một cù lao nhỏ trên sông Hương vì thời các chúa Xứ Đàng Trong dùng như một vườn thú nhốt cọp -beo ở các hổ trận nên gọi tên là Dã Viên. Thời Pháp thuộc, cầu Bạch Hổ là cầu sắt dùng riêng cho xe lữa.
- Cầu Sông Hương được Công Binh dẹp cầu phao, cuối năm 1968, theo chỗ cầu phao cũ làm móng bê tông cốt sắt, quê kệch hết chỗ nói (cũng theo Thân Trọng Tuấn- 2006)
- Chợ Đông Ba nằm sát ngã ba bờ sông Hương và sông Gia Hội, thuộc khu phố Trần Hưng Đạo, cách cầu Tràng Tiền chừng 500 m về hướng Đông,Triều Gia Long cho lập chợ ở ngòai thành gần cửa Chánh Đông, tức là cửa Đông Ba sau này. Năm 1887, vua Đồng Khánh cho làm thêm nhà vuông lớn, lợp ngói, không phân lô gọi là đình chợ. Lại cho làm các dãy thấp hơn, phân chia từng lô hàng, cho thuê gọi là quán chợ. Năm 1899, vua ThànhThái cho dời chợ Đông Ba ra khu phố TrườngTiền sát bờ sông Hương và sông Gia Hội, trên bãi đất trống, dân Huế vẫn gọi là Giại. Năm đó, vua cho gỡ ván lót cầu Trường Tiền ra, xong đúc sàn cầu bằng xi măng. Chính giữa chợ, cho xây một lầu gạch 3 tầng. Tầng thứ hai treo đồng hồ 4 phía. Năm 1969, ngoài việc cho xây Cầu Sông Hương kệch cỡm, người ta cho phá lầu chợ Đông Ba, cho xây một lầu mới 3 tầng, kiến trúc thật vụng về, hình dáng như cái hộp, làm mất hết nét đẹp của thành phố Huế. Chợ Đông Ba là trung tâm trao đổi dịch vụ quan trọng và lớn nhất xứ Huế. Hải sản hàng ngày chở từ cửa biển Thuận An lên. Hoa quả từ Kim Long, Nguyệt Biều chở xuống. Vịt, gà từ Phú Vang, An Cựu, Dã Lê chở lên. Khoai môn, các thứ tiểu công nghệ từ Đại Lược, Bao La chở vào. Gạo từ An Cựu chở lên hay từ Quảng Điền chở vào … Tất cả đường bộ, đường thủy hầu hết đều quy tụ vào chợ Đông Ba .
- Hồ Tĩnh Tâm thành lập năm 1836, phía Đông Bắc, ngoài Hòang Thành. Chung quanh hồ cho xây tường gạch thấp có trỗ 4 cửa, nhưng không làm cánh cửa. Hồ Tĩnh Tâm có 3 đảo: Bồng Lai, Phương Trượng và Doanh Châu. Trên đảo Bồng Lai có dựng điện Bồng Doanh, phía Nam là cầu Bồng Doanh, phía Bắc là cầu Hồng Cừ. Cầu này làm bằng gỗ, lan can bọc lưới sắt, nẹp viền mỹ thuật. Phía Tây là cầu Trừng Luyện. Phía Đông là tạ ThanhTâm. Đảo Phương Trượng thuộc phía Bắc. Phía Bắc đảo Phương Trượng có dựng lầu Tĩnh Tâm. Phía Tây dựng hiên Dưỡng Tánh. Phía Nam có làm cửa Bích Tảo, trước cửa dựng cầu Bích Tảo. Cầu Bích Tảo, lầu Tĩnh Tâm, hiên Dưỡng Tánh nay đã hư sập hết, không rỏ đã trùng tu lại chưa ? Chính giữa hồ, giữa hai đảo Bồng Lai và Phương Trượng, có dựng đình Tứ Đạt. Phía Đông Bắc đình Tứ Đạt là Hạc Hải Trì, có dựng lầu Tàng Thư, nơi chứa sách qúy của triều Nguyễn Phước xa xưa. Điều đau buồn nhất là Việt Minh năm 1946, cho đốt phá lầu Tàng Thư, cả một kho tàng văn chương- văn hóa triều Nguyễn Phước đã cho sưu tầm hay người dân, các quan dâng hiến từ triều Minh Mạng đến triều Bảo Đại, vô cùng quý báu, cất giữ cả trăm năm, bổng chốc tiêu tan, dưới chiêu bài tận diệt tàn tích, thực dân - phong kiến, lấy sách xé ra cho dân thất học làm giấy vấn thuốc hút !
Kiến trúc- Thừa Thiên - Huế xưa là bảng tổng kết cô đọng nhất những giá trị truyền thống còn bảo tồn được rõ nét đến hiện tại về các mặt công năng mặt bằng, kết cấu, qui họach thành quách và đô thị, trang trí trần thiết nội thất, kiến trúc phong cảnh. Những đặc điểm của kiến trúc thời Pháp thuộc, thể hiện sự du nhập phương thức xây dựng và quy họach đô thị Châu Âu và sự chuyễn hóa giữa xây dựng Pháp và văn hóa Á Châu. Ở Thừa - Thiên điển hình nhất là khu nhà hàng Morin Frères, Chaffanjon cũ, các nhà cửa kiều dân Pháp, bên cạnh, sau Morin và tòa Khâm, dinh tòa Khâm sứ, cửa dinh đồ sộ và vườn quân nhạc Pháp trước tòa Khâm, bên cầu Tràng Tiền, khu vườn Bia Trận vong chiến sĩ Pháp và Việt thuộc địa Thế Chiến 1914 - 1918 bên bờ sông Hương , trước mặt trường Đồng Khánh - Khải Định ( nhà thơ Tố Hửu, thời còn làm thơ tinh thần quốc gia đã mĩa mai “ Bỏ thân những tưởng vì non nước, đâu biết mình riêng đã dối mình” ). Có lẽ luôn cả 139 biệt thự những năm 1930, nay đã hòan tòan hư hỏng ở khu nghĩ mát Bạch Mã, trên độ cao 1000 - 1444m. Hài hòa Tây Phương- Đông Nam Á này đã được một con dân xứ Huế, kiến trúc sư khôi nguyên giải La Mã , Ngô Viết Thụ thể hiện, tái xây dựng dinh Norodom bị ném bom thành Dinh Độc Lập ở Sài Gòn, thập niên 1960.
Danh lam thắng cảnh di tích lịch sử, tài nguyên thực vật, động vật, khoáng sản kể trên … là những ưu điểm so sánh của Thừa Thiên Huế , đã giúp lảnh vực du lịch, dịch vụ, thương mãi từ nhiều năm nay dẫn đầu phát triễn kinh tế xã hội. Tuy nhiên có lẽ cũng nên nói qua phần đóng góp của tài nguyên văn hóa nhân sinh nữa. Thừa Thiên Huế có hình thái Múa Cung Đình Chăm và Kinh -Việt . Múa cung đình vẫn còn dấu vết trên các tượng đá Vũ nữ Trà Kiệu (Quảng Nam) … thế kỷ thứ 7 thứ 8, tuyệt tác điêu khắc và múa cung đình Chăm.
* Múa Cung Đình Huế định hình từ thế kỷ thứ 17, kết tinh một truyền thống 3 thế kỷ. Múa được tiến hành trong các trường hợp : lễ tế giao, lễ tích điền, lễ tế văn miếu, lễ kết hôn của hòang tử hoặc công chúa v.v... .Múa Cung Đình tiêu biểu cho Huế ngày nay là múa Hoa Đăng ( lục cúng hoa đăng ). Thuở xưa múa Hoa Đăng là múa 6 lần, tượng trưng 6 lần dâng cúng: hương, hoa, đèn, trà, quả, oẳn. Đội hình múa lục cúng Hoa Đăng gồm 48 vũ sinh nam nữ; đặc điểm là người múa 2 tay cầm đèn hoa sen vừa hát vừa múa và tạo hình thành từng mảng khối hay các hình hoa khác nhau. Mỗi khi hết một lần múa, lại kết thúc bằng những hình tượng - trụ bộ rất độc đáo như “ cỗ la liệt”, “ cỗ giả hòang”, “ cỗ tướng hảo”, xếp bằng cách chồng người, tòan bộ như một đài hoa sen tỏa sáng lung linh.
*Ca Huế đã có từ hàng trăm năm rồi, nhưng sân khấu cổ nhạc từ xưa vẫn chỉ thấy hát bộ ( bội) và sau đó là cải lương, phát xuất từ miền Nam Việt Nam. Hát bộ gần như thường trực ở rạp Đồng Xuân Lâu - Rạp Bà Tuần. Ca Huế từ trước đến nay vẫn chừng ấy điệu: Nam Ai, Nam Bình, Phú Lục , Cổ Bản , Huê Tình, Kim Tiền ,Tứ Đại Cảnh… Theo Hòang Thế Định ( Florida - 2006 ), ông Hòang Trọng Đồng ( 1899 - 1987 ) rành sân khấu hát bộ, nhờ các buổi trình diễn ở Duyệt Thị Đường ( Hòang Cung Huế ) và nghiên cứu thêm sân khấu Cải Lương miền Nam, đã đưa Ca Huế lên sân khấu với tính chất nhạc kịch. Năm 1938, ông Đồng sáng lập ra Gánh Ca Huế Kim Sanh, sau đổi thành “ Đoàn Ca Kịch Kim Sanh”, đưa hai vỡ tuồng ca kịch đầu tay Kim Sanh là “ Thói Thời Đen Bạc” và “ Tình Là Giây Oan” đem trình diễn thử thành công lớn ở Dã( Dạ ) Lê, một rạp hát ngoại ô Huế, rồi đóng đô gần như thường trực ở rạp “ Bà Tuần” Đồng Xuân Lâu. Kim Sanh có một điệu ca mới là điệu Dõan Xuân cũng do ông Đồng sáng tác, cùng nhiều vỡ khác, nêu lên những sự kiện lịch sử, hoặc dã sử, những cảnh sinh họat đương thời. Mức phổ biến lan rộng làm nẩy sinh tính từ “ ăn nói Kim Sanh”, “ bộ điệu Kim Sanh” cho những ai diễn tả lời văn hay câu nói mang tích cách sân khấu. Sau năm 1954, thế hệ trẻ lớn lên nghiêng về nghệ thuật phim ảnh, thoại kịch và các chương trình tân nhạc, tiêu biểu nhất là nhạc và nhất là lời nhạc của Trịnh Công Sơn, một con em xứ Huế. Sân khấu Cải Lương Miền Nam phát triễn mạnh mẽ mọi mặt, nhất là kỷ thuật ánh sáng, âm thanh cũng như đề tài sáng tác. Các đoàn hát thi nhau ra miền Trung phổ biến nghệ thuật Cải Lương Nam Kỳ. Năm 1956, Đòan Ca Kịch Kim Sanh thật sự ngưng hẳn, sau lần diễn cuối cùng ở rạp Hòa Bình - Đà Nẳng.
Dịch vụ dẫn đầu từ lâu
Dịch vụ dẫn đầu từ thập niên 1990, nhưng còn phát triễn thêm được nữa. Từ năm 1990 đến năm 1999, trong khi lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp ở GDP giảm dần từ 44.2 % năm 1990 xuống 22 % năm 1999, dịch vụ đã tăng từ 36 .1 % năm 1990 lên 47. 5 % năm 1999. Thời gian 2002- 2006, phần dịch vụ cũng không giảm vì chiếm 44.1 % năm 2002 và 43. 8 % năm 2006 . Sở dỉ tỉ xuất dịch vụ có sa sút đôi chút năm 2006 là vì lảnh vực công nghệ và xây cất đã tăng từ 30. 6 % năm 1999, lên 36. 1 % năm 2006. Năm 1990, lảnh vực này chỉ mới chiếm 19. 7 % . Lảnh vực nông lâm ngư cũng còn xuống dốc hơn nữa theo tỉ lệ trong chiếm hửu GDP , năm 2006 chỉ còn 20. 1 %. Tăng trưởng kinh tế năm 2005 là 11,2 % và năm 2006 là 13.4%. Tỉnh Thừa Thiên-Huế báo cáo cho bộ Chánh Trị tháng 7 năm 2014 là tăng trưởng kinh tế tỉnh nhà, thời gian 2009 - 2013, trên 10.2% một năm và GDP mỗi đầu người đã tăng 1,77 lần hơn, nay đã trên 1000 USD. Tỉ xuất đô thị hóa là 40 -50 % , nghĩa là trên mức dự liệu cả nước trước đây vào năm 2015-2020( ? ). Mức xuất khẩu năm 2013 cũng đạt trên 300 triệu USD, với các con số trên 30 triệu USD năm 1997 và gần 29 triệu USD năm 1999 ( năm bị bảo lớn ).
Du lịch là ngành dịch vụ phát triễn mạnh nhất tỉnh nhà. Năm 1996 lượng khách đến Thừa Thiên - Huế là 286 859 lượt người. Năm 1996 tăng lên 388 835 lượt. Năm 1999 có 156 205 khách quốc tế . Tỉnh cho biết là 6 tháng đầu năm 2014, số lượng du khách đã trên 1 triệu người, trong đó phân nữa là ngọai quốc . Năm 2000, cả tỉnh đã có 76 khách sạn, tổng số phòng là 2153. Trong số này có 15 khách sạn được xếp sao, bao gồm 3 khách sạn 3 sao là Century, Hương Giang, Sài Gòn Morin Hotel, 6 khách sạn 1 sao. Các tháng 6 - 8 năm 2014 , trong số 110 khách sạn Huế được Trip Advisor ( ? ) đánh gía xếp hạng từ thấp cao 1- 5 , thì khách sạn hạng 5 là Tâm Tịnh Viên Homestay; hạng 4.5 là Thân Thiện Hotel - Friendly Hotel, Victory Hotel Hue, Waterland Hotel, Vina Hotel Hue; hạng 4 là Ngọc Bình Hotel, Park View Hue Hotel, Nhật Lệ Hotel, New Star Hotel, Festival Hue Hotel, Tigon Hostel và hạng 3.5 là Century Riverside Hue Hotel, Hương Giang Hotel Resort & Spa, Phượng Hòang - Phoenix Hotel, Hue Queen 2 Hotel . Một xếp hạng khác lại cho Holiday Diamond Hotel đứng hạng nhất, Jade Hotel hạng 2, Hue Serene Palace Hotel hạng 3… , BW Premier Indochine hạng 5, La Residence Hue Hotel hạng 6, Eldora Hotel hạng 7 , … Orchid Hotel hạng 9, Moonlight Hotel Huế hạng 10, trong số 110 khách sạn thăm viếng . Tuy nhiên năm 2014 , Thừa Thiên chỉ mới có một khách sạn đạt 4 sao, chưa có khách sạn 5 sao như Bình Dương .
Các món ăn đặc biệt Huế không phải ăn để sống, mà là một dạng nghệ thuật nấu nướng. Các món ngon rất thanh nhã, nhẹ nhàng và qúi phái, khác với các món ăn ngon các tỉnh Việt Nam. Gia vị, nhất là ớt cay, đóng một vai trò quan trọng trong nghệ thuật trình bày nấu ăn Huế. Đáng lưu ý ngày nay khi thưởng thức món ăn Huế là nên biết chúng đã được làm ra để vua “ thời- ăn” trong quá khứ. Ngành du lịch Huế kể ra đầu tiên là món Cơm Hến , một món đơn giản và giá hạ, đem tới bạn mùi vị ngọt ngào của cơm địa phương (gạo gie An Cựu ? ) và nhiều lòai rau Huế, pha trộn mùi bơ, đắng, chát của gia vị, mỡ heo và hến. 4 dĩa món Huế khác không nên quên là Bánh Bọc Lọc ( bột gạo bọc tôm, thịt ) , Bánh Lá Chả Tôm ( bột gạo bọc trong lá, thường là lá chuối, nấu hấp hơi thành bánh mềm, phần trên mặt trộn thịt, tôm, trứng, ăn riêng với chả tôm kiểu Huế), Bánh Hỏi Thịt Quay , Bánh Lá ( xôi bọc lá ) … Bún Thịt Nướng, Bún Bò Giò Heo rất được du khách mến chuộng. Và lẽ dĩ nhiên là gần 50 món chè - sweet soup Huế, đơn giản hay phức tạp, trong số này dân Huế hảnh diện nhất là: chè khoai tía - purple yam, taro sweet soup, chè long nhãn bọc hạt sen - longan wrapped in lotus seed sweet soup , chè xôi trôi nước nhân tôm thịt - floating sticky rice with shrimp sweet soup, chè đậu ván bột lọc - fava bean and rice pastry sweet soup. Vài món Huế ăn chơi vào khỏang 3- 4 giờ chiều ,không vào bửa ăn chính, còn dành riêng cho dân Việt ăn uống sành sỏi .Theo Bùi Minh Đức ( tuyễn Tập nhớ Huế số 17- 2006 ) ăn lúc lỡ bữa này là ăn trái mít chín cây- trái mít lỗn cồi, hay ăn trái mít dú trong lu gạo , hột mít luộc để trên rá tre “ nóng hổi hổi vừa thổi vừa ăn”, món vả ( gốc Chiêm Thành ? ) trộn, được luộc trước, cắt lát mỏng như giấy, sau khi đã gọt vỏ ngòai, ăn cùng mè rang thơm phức, xúc với bánh tráng . Cũng phải có răm mới thành món mít trộn và để làm dáng cho đẹp mắt, rắc một ít tôm chấy màu đỏ hồng lên mặt cho có cảm tưởng vừa ăn bằng miếng, vừa ăn bằng mắt, đôi khi gặp miếng tóp mỡ sần sật vừa thơm, vừa béo, vừa dòn. Món Hến xào xúc bánh tráng khắc hẳn. Hến luộc xong, lấy ra khỏi vỏ từng con, rất cônng phu. Vắt khô rồi xào với ớt , với những lát thơm ( dứa ) vắt khô ráo rồi trộn với mè. Hến xào của Huế ngon là nhờ cái mùi bất hủ của hến Cồn Hến - Huế . Ngày nay trên thế giới có sẳn khắp nơi, hến Trung Quốc trong hộp, mùi không ngon bằng hến xúc dưới lòng hói, lòng sông xứ Huế. Cồn Hến đã bỏ Huế ra đi từ hồi nào không hay và cồn Hến nay thật sự không còn bao nhiêu hến . Món ốc luộc có nhiều thứ ốc từ ốc gạo nhỏ lăn tăn như hột bắp đến thứ ốc bưu lớn hình. Ăn ốc cần phải có “ Cái Khươi” một đầu nhọn, một đầu có mày, thường là gai buởi, gai chanh. Có người trữ sẳn kim băng để móc thịt ốc, ăn xong lại ghim vào áo như cũ . Ăn khoai luộc chấm muối mè rang, thì thật là không có gì hơn. Về mùa hè, thường có các gánh bắp” nếp “ Cồn Hến gánh qua đò Gia Hội đi bán dọc đường. Bắp nướng bằng lửa than thì khỏi chê. 4 món ăn chơi cuối cùng, ăn bữa lợ cũng được mà ăn bữa chính cũng xong: gà bóp Huế ăn đúng điệu là với rau răm Huế chính cống , bổ túc với món cháo gà ăn với xôi nếp, nấu dẽo dẽo chứ đừng qúa khô mất ngon ; cháo vịt , phải dùng dao thật bén chặt khéo tay cho xương khỏi vụn . Thịt vịt có cả da, cả thịt, cắt thành lát, chấm nước mắm gừng, có tí ớt-tí đường-tí tỏi ; món “Xôi thịt xáo” , nay ít ai ăn. Chung quy là thịt bò thật mềm, cắt lát nhỏ, bóp tiêu hành nước mắm, nhiều sả xắt nhỏ, đem ướp nữa ngày, rồi xào nhẹ lúc gần ăn. Các tiệm ăn Huế du khách thích thú ngày nay là Huế Serene Restaurant, Les Jardins de La Carambole, Family Home Restaurant , DMZ bar và Ninás Cafe … và 20 tiệm ăn khác được xem là có nhiều món ăn ngon hợp khẩu ngọai quốc , trong số 32 tiệm quốc tế duyệt xét đầu năm 2014.
Mạng lưới giao thông hòan chỉnh hơn đã giúp du lịch Thừa Thiên - Huế tiến mau hơn nhiều. Theo Võ văn Tùng ( Nhớ Huế - 2006 ) Hầm Hải Vân khởi công xây cất thật sự tháng 4 năm 2001, đã khánh thành ngày 5 tháng 6 năm 2005 , cắt ngắn thời gia di chuyễn hai vùng Huế - Đà Nẳng, thay vì phải chờ đợi nhiều thời gian trên đèo, chỉ cần 8 phút là xe đã qua khỏi đường hầm, quẹo trái về phía bải biễn Nam Ô, theo một đại lộ mới xây sát bờ biển, chẳng mấy chốc hành khách đã có mặt trên con đường chính thành phố Đà Nẳng là thành phố tấp nập lớn nhất miền Trung. Hầm xuyên đèo Hải Vân là một trong 30 hầm hiện đại nhất thế giới, công trình phi thường của 1200 kỹ sư, chuyên gia , công nhân trong và ngòai nước , phí tổng là 150 triệu đô la Mỹ USD thời đó . Chiều dài tổng cọng 12 km, ngắn hơn đường đèo 9km. Hầm chính thực sự dài 6280m, rộng 11.9m cao 7.5 m. Hầm Hải Vân có 2 hệ thống : hầm phục vụ giao thông và hầm thóat hiểm nhỏ hơn chạy song song, cách hầm chính 30m . Ngoài ra còn có 15 đường hầm ngang, nối hầm chính và hầm thóat hiểm đề phòng khi tai nạn làm tắc nghẽn lưu thông.
Tỉnh Thừa Thiên Huế cách Hà Nội 654 km , cách Sài Gòn - TP HCM 1051 km và TP Đà Nẳng 85 km. Về đường bộ trên hết là Quốc lộ 1A, chạy dài Nam Bắc ngang qua các huyện Phú Lộc, Hương Thủy, TP Huế, Hương Trà , Phong Điền. Các đường cần bảo trì và cải thiện liên tục là tuyến đường 68 , song song trục chánh 1A, chạy dọc ven biển từ Phó Hội ( Cửa Việt- Quảng Trị ), cảng Thuận An ( có cầu Trừờng Hà ? bắt ngang Phá Tam Giang mênh mông, hai bên nay là những vũng nuôi tôm ) đến Vĩnh Mỹ( gần cửa Tư Hiền ) và khúc đọan quốc lộ 14 xuyên suốt huyện A Lưới, từ đèo A Krong ( Quảng Trị ) đến Thạnh Mỹ ( Giằng, Quảng Nam ) ngang qua A Lưới, A Sao ( A Sầu ), A Đót Thừa Thiên. Đáng chú trọng là đường ngang số 49, nối Huế với miền núi phía Tây qua các vùng lăng tẩm, đến Tà Lương rồi Mạ Ơi, trước khi gặp quốc lộ 14 gần A Lưới. Huế và Đà Nẳng là những nơi xe lữa Hà Nội- Sài Gòn ngừng chân có nhà ga khang trang , xinh xắn.
Mạng lưới đường sông phát triễn kém hơn, chỉ bó hẹp trong phạm vi tỉnh, vì sông ngòi ngắn, dốc. Năm 2000, tỉnh có 202 thuyền máy chở hàng, 5 ca nô 200 ghế và 278 thuyền chở khách. Nên tân tiến hóa thêm các chuyến tàu đò du lịch trên dòng sông Hương, có thể dạo khắp kinh thành, ngược dòng sông đến rừng thông lăng Thiên Thọ - Gia Long hay xuôi dòng qua chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, lăng Minh Mạng về tới Thuận An, đạt mức độ các sông đào hay không Âu Châu, nhất là sông đào Thành Phố Venice - Venise ra đến biển Đông, đến cảng biển Thuận An, đã xây dựng xong, rôi xuôi dòng về Nam dọc theo biển ngòai Phá Tam Giang đến cảng biển Chân Mây , không biết nay đã hòan tất chưa. Hy vọng Chân Mây trong tương lai không những là một cảng chuyễn vận hàng hóa mà là một du cảng quốc nội và quốc tế, gần bải biễn đẹp Cảnh Dương cát mịn dài đến 8 km, rộng 200m, bải biển Lăng Cô dài tới 10 km cạnh tuyến đường xuyên Việt ,Hành Lang Xanh du lịch sinh thái dãy núi Bạch Mã, Đảo Sơn Chà( Sơn Trà ? ), đèo Hải Vân, Mũi Chân Mây, bán đảo Sơn Trà- Đà Nẳng …
Phi trường quốc tế Phú Bài cũng là phi trường quốc nội hành khách đông nhất, cách TP Huế 15 km về phía Nam, xếp hàng thứ tư các phi trường Việt Nam. Chánh quyền đã chấp thuận nâng cấp Phú Bài lên thành phi trường quốc tế, có nhiều chuyến bay liên lạc đến một số nước Á Đông.
Lễ Hội Festival Huế
Nhờ các cải tiến hạ tầng cơ sở mà nay Huế đã tổ chức được Lễ Hội Huế- Festival thứ 8, bắt đầu ngày 12 tháng 4- 2014 và chấm dứt ngày 20 tháng 4 - 2014, có 26 ban văn nghệ của 23 quốc gia tham dự, trình diễn gia tài văn hóa du lịch, nghệ thuật liên quan tới văn hóa lịch sử luôn cả văn hóa chánh trị nước nhà và các nước nữa . Thay vì chỉ có các lễ hội dân gian: lễ hội Điện Hòn Chén hai lần một năm ( Xuân Tế tháng 2 và Thu Tế tháng7 ), lễ hội Cầu Ngư ở Thái Dương Hạ vào ngày 12 tháng giêng âm lịch hàng năm … Năm 2014 cũng trùng với kỷ niệm các sự nghiệp công trình xây dựng Huế như kỷ niêm 210 Năm ( 1804- 2014 ) tên gọi nước nhà là Việt Nam, 115 năm cầu Trường Tiền và Chợ Đông Ba ( 1899 - 1014 ), 120 năm Bệnh Viện Huế ( nay là Bệnh viện Trung Ương) … Ngòai trình diễn áo dài, Festival Huế thứ 8 ( nghĩa là đã 16 năm nay, 2 năm một lần ) còn tổ chức hai lễ hội dân gian- folk festivals, chẳng hạn như “ Hương Xưa Làng Cổ” ở làng cổ Phước Tích, huyện Hương Đìền, “Chợ Quê Ngày Hội” ở làng cầu ngói - roofed tile bridge ThanhTòan, thị trấn Hương Thủy.
Các khu công nghiệp Phú Bài , Chân Mây
Công nghiệp Thừa Thiên-Huế cũng đã lợi dụng địa lý và tài nguyên phát triễn theo nhịp độ mau lẹ. Tỉ trọng đã tăng nhanh từ 19. 7 % năm 1990 lên đến 30. 5 % năm 1999 . Các công nghiệp chủ yếu là : - thực phẩm và đồ uống : bia ( nhà máy Bia Hue Brewery Ltd có nhãn hiệu riêng Huế dễ công nhận, khởi sự đầu tư năm 1990, đã có dung lượng 100 triệu lít/năm năm 2007 ), nước giải khát, thủy hải sản đông lạnh , nước mắm, chế biến các nông sản cây trái xứ Huế như quýt Hương Cần, mít, nhãn hột tiêu Huế , khế , cam Canh Nông Nguyệt Biều, hột sen hồ Tĩnh Tâm hay quanh các hào ngọai Thành …- công nghiệp dệt may: vải sợi , quần áo may sẳn, trang phục bằng da và giả da ... -công nghiệp vật liệu xây dựng như các lọai ngói , vôi , tập trung chủ yếu vào hai xí nghiệp xi măng LongThọ và công ty xi măngLUKSVASI ...- công nghiệp khai khóang, khai thác đá , đát sét, cao lanh và một số quặng kim lọai và sau năm 2005 là suối nước khóang Mỹ An mới khám phá năm 2003. - tiểu công nghệ thuật như may áo dài- vietnamese long dress ,chằm nón lá - conical hat bài thơ hay không, đồ gốm ( gốm hoa lam Huế thóat thai từ gốm hoa lam thời Lê - Mạc, thế kỷ thứ 15- 17, có nghệ thuật hội họa Huế riêng Huế hòa tấu ), bàn ghế tủ giường, chạm khắc gỗ, giấy mã, giấy nghệ thuật ….
Phát triễn Công viên Công Nghệ Phú Bài và khu Công nghệ Chân Mây là tương lai kinh tế xã hội Huế. Công viên công nghệ Phú Bài ở làng Hương Thủy, cạnh quốc lộ 1A , phi trường quốc tế Phú Bài, đường xe lữa Thống Nhất ( Nam- Bắc), đã được thiết lập năm 1998. Diện tích 515 ha, phát triễn hạ tầng cơ sở theo 4 giai đọan; nay đã xong giai đọan 4, thu hút 40 dự án công nghệ ngọai quốc đầu tư ( Hoa Kỳ, Đan Mạch , Bulgary, Nhật, Nam Hàn, Trung Quốc … ) , được xem là 1 trong 5 khu công nghệ đẹp nhất nước . Khu Chân Mây sẽ phát triễn ở thị trấn Chân Mây và cảng biển sâu Chân Mây, nay tàu trên 30 000 tấn đã cập bến được, ngòai các công nghệ truyền thống sẽ cố gắng chuyễn qua công nghệ cao kỹ, chế tạo, sửa chửa cơ khí, đóng tàu thuyền , sản phẩm phần mềm điện tử… cố tiến tới thành một trung tâm hoạt động các tin tức - báo chí - thông tin- truyền thông quốc tế, đảm trách hệ thống doanh vụ - dịch vụ, du lịch, tài chánh, bưu điện , viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng, y tế, giáo dục …
Cuối cùng, Huế muốn biến Viện đại học đa năng hiện tại thành một viện đại học tầm vóc quốc tế, không chỉ riêng cho miền Trung như trước đây, tạo dựng một trung tâm khảo cứu khoa học công nghệ đời sống mới, tính chất và dung lượng văn minh cao cấp.
( Irvine, Nam Ca Li - Hoa Kỳ, ngày 3 tháng 8 năm 2014 ) |