115/2014
1 - Cảm Tưởng Hân Hoan Chiến Thắng ở Tokyo
Đây là những lý do chủ nghĩa dân tộc quốc gia đang trở lại Nhật, ở sách Bẻ cong Bất lợi- Ngịch cảnh : Nhật Bổn và Nghệ Thuật Sống Còn- Bending Adversity : Japan and the Art of Survival của David Pilling, Penguin Press, xuất bản năm 2014, dày 400 trang . Kỳ này, các hàng chữ trang nhất báo chí Nhật không nói về giảm sút k inh tế hay khủng hỏang hạt nhân Fukushima. Báo chí Nhật tụ điểm vào thái độ khẳng định kích thích thuế khóa, dễ dãi định lượng và cải cách cơ cấu gọi tên chung là “ Abenomics” , đã giúp nâng cao thị trường chứng khoán Nhật và gây thêm lạc quan cho những viễn cảnh kinh tế Nhật.
Trong lúc đó, Abe đã đốt lò nhiệt tình yêu nước , đề cao Nhật là một “ Quốc gia Mỹ miều” , quá khứ không bị những giai đoan xấu xa vấy bẩn . Trên một cắt đứt nhọn hoắc về tình huống quốc tế Nhật sau thế chiến, thông hiểu những phạm tội của Nhật vào thời đại đế quốc Nhật hòang, nhấn mạnh nhún nhường và thận trọng , Abe và các đồng minh ông luôn luôn tỏ bày kiêu hảnh về sức mạnh quốc gia của Nhật và duy trì sức mạnh này ở thế kỷ thứ 20 , là Nhật đã cư xử không có gì tệ hại hơn là một cường quốc thực dân khác cả .
Abe đã xây đắp sự nghiệp chánh trị lâu dài của mình xung quanh các đề tài này . Trong thời gian ngắn làm thủ tướng kỳ đầu tiên, các năm 2006- 2007, ông đã thực thi một chánh sách giáo dục bảo thủ và nâng Cơ quan Bảo vệ Nhật - Japan Defense Agency lên thành một bộ Quốc Phòng cấp nội các, đầy đủ lông cánh . Tuy nhiền vào thời kỳ lảnh đạo thứ nhất , Abel đã cẩn thận không khiêu khích Trung Quốc và tự kiềm chế không viếng thăm Đền tranh cải Yasukuni , một đền kỷ niệm các chiến sĩ Nhật đã chết cho đất nước Nhật , vinh danh một số lảnh đạo quân sự và chánh trị Nhật đã bị kết án là tội nhân chiến tranh ở Thế Chiến Thứ Hai .
Kỳ này, Abel đã theo một lối đi khác hẳn. Liên hệ giữa Nhật và hai nước Trung Quốc và Hàn Quốc ( Nam Hàn ) đã hư hỏng đi những năm gần đây, tuy nhiên Abel vẫn lựa chọn thăm viếng Đền tháng chạp năm 2013 , gây ra các la ó lăng nhục tiên đóan được , từ Bắc Bình và Hán Thành - Seoul . Thăm viếng này tung ra tín hiệu là trên các sự việc trong và ngòai nước , Abel đã tỏ ra mạnh dạn hơn nhiều . Điều chưa rỏ ràng là không rỏ là sức mạnh phổ thông và chánh trị của thủ tướng phản ảnh bao nhiêu thay đổi sâu đậm của dân gian Nhật cho một chánh sách ngọai giao khẳng định và dân tộc chủ nghĩa hơn, một chánh sách có thể là nguồn cơn rối lọan cho Á Châu, đang thấy những căng thẳng tăng gia thêm đến các mức độ chưa từng thấy nhiều thập niên qua .
Sách Bending Adversity – Bẻ Cong Nghịch Cảnh của David Pilling , cống hiến một cái nhìn xa hửu ích cho các vấn đề này. Pilling là biên tập viên Á Châu của Thời Báo Tài Chánh – Financial Times và đã làm Cục Trưởng Tokyo của tập san từ năm 2002 đến 2008 . Ông đã dùng một lọat rộng lớn văn bản và rất nhiều phỏng vấn , để làm sáng tỏ nhãn hiệu chủ nghĩa dân tộc bảo thủ Abe và các đồng minh chủ trương. Pilling khéo léo tiết lộ các cội rễ lịch sử cái nhìn thế giới của Abe và nhận thức tương đối đầy hy vọng cái nhìn ảnh hưởng trên xã hội Nhật này, cùng với những liên quan của Nhật với các quốc gia lân bang và thế giới. Nhưng một kết tóan chi tiết hơn về quá khứ mới đây của Nhật, đặc biệt là những lọat cải cách tuyễn cử, đã tạo ra những khích lệ cho các chánh trị gia tỉ như Abe ôm đồm một chủ nghĩa dân tộc dạng năng nổ hơn, nhấn mạnh đến một kết luận có lẽ ít máu me hơn ?
Vừa là một khổng lồ vừa là một kẻ lùn
Tít cuốn sách Pilling nói đến một cách ngôn Nhật về chuyễn một điều không may qua một vận may . Sách đóng khung lịch sử Nhật như thể một câu chuyện cố vượt qua các trở ngại , phá ngang tham vọng các cường quốc thuộc địa thế kỷ thứ 19 và phục hồi một bại trận tàn khốc ở Thế Chiến Thứ II, trong lúc đó vẫn phải chiến đấu với nhiều giới hạn kềm giữ nước Nhật lùi về phía sau. Trong đọan này , Pilling tụ điểm vào hai đề tài : cái điều ông gọi là “ thảm kịch địa lý” tạo hình dạng vai trò của Nhật trên thế giới và sự kiện là dù Nhật có tính đàn hồi hậu chiến uy mảnh , di sản chiến tranh đã khiến Nhật trở thành một “quốc gia bất thường” .
Theo lời Pilling, địa lý Nhật có nghĩa là một quốc gia đảo bé nhỏ, lùn tụt so với lân bang đồ sộ Trung Quốc, không trở nên bi thảm mãi cho đến năm 1853 khi Thiếu tá Hải Quân Matthew Perry đến ép buộc Nhật mở cửa các hải cảng cho thương mãi và ngọai giao Hoa Kỳ. Thế giới đã co lại quanh một Nhật bổn hòa bình và ốc đảo, và Nhật bổng nhiên bị đẩy mạnh vào chánh trị địa lý của các tham vọng thực dân Tây Phương . Các lảnh tụ Nhật kết luận là cách duy nhất giúp Nhật sống còn như thể một quốc gia độc lập có cơ tranh đua cùng các quốc gia Tây phương uy vũ đang bắt đầu chiếu uy quyền vào Á Châu : theo một ý nghĩa nào đó, Nhật phải trở thành không có gì là Á Châu cả và phải tân tiến mau lẹ để trở thành một quốc gia thực dân , tìm cách chủ trì các lân bang. Theo cách nhìn của Pilling , đến điểm này , Nhật trở thành “ một cường quốc Âu Châu phần nào bị lọt bẩy sập vì vị trí và lịch sử mình”.
Nhưng chiến bại ở Thế Chiến Thứ II đã đánh ngã quị Nhật . Nhật hậu chiến thành một quốc gia khách hàng của Hoa Kỳ, chứa một hiện diện hùng hậu quân sự Hoa Kỳ . Tuy nhiên , thành công kinh tế hậu chiến đã làm ra nền tảng cho một xác định quốc gia mới . Nhật đã mất hết đế quốc thuộc địa và thấy quân sự mình bị đè bẹp. Tuy nhiên, Nhật đã tái lập tình huống cũ trên thế giới. Không một quốc gia nào không phải là Tây Phương, có thể sánh được thành công của Nhật. Dù vậy, dân gian Nhật lo âu về sự kiện là họ, trên phương diện khẩn thiết này, khác hẳn các quốc gia thịnh vượng khác. Như Piling cho biết, bị lột bỏ đi mất quyền hạn có một quân đội vì hiến pháp hòa bình viết theo Hoa Kỳ, Nhật đã trở thành một khổng lồ kinh tế , nhưng lại là một tay lùn ngoại giao .
Một lần nữa, chính HOa Kỳ đã xô đẩy các nhà lảnh tụ Nhật ra khỏi vùng thỏai mái và kích động các bàn cải cách nào “ bình thường hóa” Nhật . Hoa Thịnh Đốn thúc đẩy Đông Kinh - Tokyo góp 13 tỉ đô la Mỹ ( nhưng không có quân đội ) vào Chiến Tranh Vịnh – Gulf War , Hoa Kỳ lảnh đạo các năm 1990 – 91. Nhưng các nhà lảnh đạo Nhật bị sốc mạnh , khi Nhật là một kẻ góp phần chánh cho nổ lực chiến tranh mà lại không nhận đươc một lời cám ơn chánh thức nào đã gíúp Kuwait đẩy lui Iraq chiếm cứ xứ sở .
Sốc kích động nhận thức là uy quyền mềm – soft power không thay được uy quyền cứng , gây ra một tranh luận nội địa về cách nào Nhât phải trở thành một quốc gia bình thường . Nói rộng hơn , hai phe trồi đầu dậy. Nhóm thứ nhất, có thể xem là bảo thủ thân Mỹ; họ muốn Nhật trở nên một đồng minh Hoa Kỳ đáng tin cậy hơn bằng cách chấm dứt thời đại chủ nghĩa hòa bình và đảm nhận nhiều trách nhiệm quân sự hơn Hoa Kỳ chờ đợi từ Nhật. Phe thứ hai , nhận rỏ là đồng minh với Hoa Kỳ vẫn là một hòn đá móng của ngọai giao Nhật, nhưng lo ngại rằng đến các quyết định Tokyo quá chặc chẻ với lịch trình Hoa Kỳ. Có thể xem phe này là chống thể thức khách hàng nhất: thành viên phe này muốn Nhật trở thành một quốc gia bình thường , không phải là quốc gia khách hàng của Hoa Kỳ . Như Pilling lưu ý, nhóm chống thể thức khách hàng thiếu mạch lạc và chia rẽ trên nhiều vấn đề đặc thù, tỉ như là có nên cải cách hiến pháp Nhật , hầu lọai bỏ các yếu tố hòa bình và phải làm gì về các căn cứ quân sự đồ sộ Hoa Kỳ ở Okinawa .
Trung Quốc bừng dậy mau lẹ càng làm cho cuộc tranh luận phứic tạp thêm và sản xuất ra một chia rẽ khác, lần này giữa phe chủ nghĩa dfân tộc và một phe nhóm thân Á Châu. Các đường viền của hai nhóm này tương tự như các đường viền cho phe bảo thủ và phe chống thể chế khách hàng , nhưng không hòan tòan giống như vậy. Phe dân tộc quốc gia muốn Nhật duy trì cá tính “ không Á Châu “ của Nhật và không muốn xin các lân bang Nhật tha lỗi về cách cư xử của Nhật trong thời đại đế quốc . Theo họ, địa lý Nhật không có gì là thảm kịch cả thảy, mất địa vị xứ sở như thể một cường quốc “ Tây Phương” đó thôi . Ngược lại , phe thân Á Châu muốn tu chỉnh về quá khứ xâm lược của Nhật và đào sâu liên hệ chánh trị với Trung Quốc.
Mâu thuẩn thay , các nhà dân dộc quốc gia chủ nghĩa Nhật , thường hình dùng “ tội lỗi chiến tranh” Nhật không là gì cả chỉ là công lý kẻ thắng , tuy rằng vẫn đeo đính chặc chẻ vào liên hệ đồng minh cùng Hoa Kỳ. Đa số chia sẽ cái nhìn của Hisahiko Okazaki , một nhà ngọai giao cũ rất gần gủi Abe, đã nói với Pilling là “ Nhật cư xử tốt đẹp , nếu kéo dài được liên hệ đồng minh với Anh Quốc hay Hoa Kỳ”. Abe chia sẽ nhãn quan này và muốn tạo ra những liên hệ quân sự mạnh mẽ hơn với Hoa Kỳ , tuồng như không bị xáo động gì cả về mối căng thẳng cố hữu giữa một đồng minh cấp dưới trẻ tuổi liên kết đến một quốc gia hùng cường hơn và cùng lúc, chấp nhận một lọai tính chất phi thường của Nhật. Abe cương quyết đẩy lui , chống lại điều ông xem là thuộc phe tả , tuyên truyền Tàu hay Nam Hàn về lịch sử Nhật. Hơn nữa, ông nhìn tăng trưởng kinh tế qua một lăng kính , xem đó là một thoa dịu an ủi cho đòn chưởng làm Nhật đau khổ , khi vào năm 2010 , Trung Quốc đã thay Nhật Bổn lên hàng thứ nhì có nền kinh tế lớn thế giới.
Thay đổi luật lệ
Dù rằng Pilling ghét chủ nghĩa dân tộc của Abe , Pilling không xem đó là một nguyên do chánh báo động và nghi ngờ lý tưởng sẽ còn nhiều sức duy trì uy quyền . Pilling biện cứ là nay Nhật bên trong nội địa quá khác biệt và nhìn xa quá để làm sụp đổ cho những mộng mơ dân tộc chủ nghĩa quá khứ . Lạc quan này có thể liên quan tới việc ông tương đối không thích thú bao nhiêu cả cho các cải cách thể chế và chánh trị đang xảy ra ơ Nhật trong vòng 20 năm qua . Nhưng đó chỉ là chống lại hậu trường, phông sau, ai đó cũng hiểu được, về bừng dậy của chủ nghĩa dân tộc quốc gia ở chánh trị Nhật.
Trái lại với hình ảnh Nhật là một xứ sở cố bám chặc những thói quen xưa cũ , trong hai thâp niên qua , chánh trị Nhật đã thay đổi rất nhiều. Vào thập niên 1990 , sau khi Chiến Tranh Vịnh đã kích động cố gắng đầu tiên để Nhật trở thành “một quốc gia bình thường” , vai nhà chính trị cao cấp của đảng Dân chủ Tự do – LDP , vào thời điểm này đã cai trị Nhật hàng chục năm rồi , đề nghị một tu chỉnh chánh của hệ thống chánh trị . Mục đích của họ là thay thế tiến trình làm chánh sách thư lại, nhất trí của Nhật thành một tiến trình dứt khóat và chánh trị công khai hơn . Hầu tiến tới mức cuối cùng này , Nhật dẫn nhập, năm 1994, một hệ thống tuyễn cữ mới.
Từ điểm đó , các bầu cử quốc hội ở Nhật đã sử dụng một hệ thống đặc biệt trong đó người đi bầu bỏ một lá phiếu duy nhất cho một đại diện ở một huyện- tỉnh đa thành viên có đến một tá ứng cử viên – kể luôn cả vài người trong cùng một đảng, sẽ tranh đua nhau ; 3 trong số 5 người hạng đầu ở mỗi huyện- tỉnh sẽ thành dân biểu . Hệ thống tạo ra những chia rẽ bè phái sâu đậm trong các đảng chánh trị và làm người bỏ phiếu khó lòng biết được chánh xác là họ ủng hộ đảng phái nào . Các chánh trị gia tranh đua phần lớn trên hứa hẹn là họ duy trì các hệ thống che chở, bảo trợ ở huyện nhà . Thành quả là các tuyễn cữ quốc gia ít khi xoay quanh các đảng tranh đua trên các vấn đề quốc gia , tỉ như phúc lợi xã hội , an ninh quốc gia , hay các chánh sách kinh tế . Lạ lùng thay là dưới luật lệ tuyễn cử xưa cũ của Nhật, nói về những vấn đề quốc gia đáng kể, không phải là sách lược tuyễn cữ hiểu biết thực tiễn .
Cải cách tuyễn cử Hạ viện Nhật phối hợp cùng hệ thống đại diện theo tỉ lệ cử tri . 300 dân biểu quốc hội nay được bầu trực tiếp để đại diện những huyện -tỉnh chỉ có một dân biểu, như thể các bầu cử Hạ viện ở Hoa Kỳ. Còn 200 dân biểu khác thì cấp cho các đảng phái chánh trị chiếu theo tỉ xuất các lá phiếu mỗi đảng được bầu , tương tự các cuộc bầu cử Quốc hội ở phần lớn Các quốc gia Tây Phương .
Cải cách có một số ảnh hưởng tức thì . Nó xóa bỏ các đảng đánh nhau ở các cuộc bầu cử quốc gia, khiến cho các tranh đua giữa các đảng thành tụ điểm ở các tuyễ cử mới . Đây là lần đầu tiên, các đảng chánh trị khởi sự Làm ra các cương lĩnh đảng, trên đó các ứng cử viên sẽ vận động bầu cử . Như đã định liệu, hai đảng chánh trỗi dậy , khi đản đối lập to lớn là Đảng Dân chủ Nhật -DPJ vươn lên thách thức đảng Dân chủ Tự do –LDP luôn luôn chủ trì . Dù rằng các đảng chưa bao giờ định nghĩa rỏ rệt các khác biệt ý thức hệ, lảnh đạo DPJ là đảng chống thể thức khách hàng thân Á Châu, trong khi lõi nòng cốt của lảnh đạo LDP duy trì một cam kết mâu thuẩn về chủ nghĩa bảo thủ thân Mỹ và chủ nghĩa dân tộc quốc gia Nhật .
Cuộc đấu tranh giữa hai đảng nâng cao bi kịch tính tầm quan trọng của các lảnh tụ đảng , vì hai lý do. Trước tiên , hệ thống mới giúp các lảnh tụ đảng vẽ hình dáng các thông điệp tuyễn cử các đảng và ảnh hưởng tới tiến trình chỉ định các ứng cử viên . Thứ hai là vì công chúng biết rỏ rằng một lá phiếu cho một đảng đặc biệt, thật sự là lá phiếu cho lảnh tụ, cho khéo léo chánh trị , cho sức lôi cuốn kỳ diệu và tính có thể đắc cử được của lảnh tụ đảng trở nên cực trọng , đặc biệt vì Nhật là một trộn lẫn giữa hệ thống “ai thắng chiếm hết mọi điều” và đại diện theo tỉ xuất, nay có nghĩa là một nhà lảnh đạo đảng được ưa chuộng có thể sản xuất ra một thắng cử to lớn , áp đảo .
Hệ thống mới thay đổi sâu xa cách cư xử của cách đáng phái chánh trị và các chánh trị gia . Lần đầu tiên, hệ thống tuyễn cử Nhật tạo ra những khích lệ cho các nhà chánh trị tham vọng cố đặc thù hóa trên những vấn đề chángh sách quố c gia . Các lảnh tụ chánh trị đảng LDP mau lẹ hơn các lảnh tụ DPJ , để khám phá ra là an ninh quốc gia , và các kêu gọi kềm theo về chủ nghĩa dân tộc, đóng một vai trò đặc biệt tốt cho mùa vận động tuyễn cử. Khác với các chánh sách kinh tế hay phúc lợi xã hội , những kêu gọi lòng yêu nước làm cho Nhât thành một quốc gia đẹp đẽ hay cường mạnh không phải chạm mặt với chống đối từ các nhóm quyền lợi mạnh mẽ và chỉ cần vài hứa hẹn đặc thù.
Nguyên thủ tướng LDP Junichiro Koizumi là nhà chánh trị bảo thủ đầu tiên nắm chánh quyền sau khi cải cách tuyễn cử được thực thi tòan diện . Chính Koizumi đã kêu gọi các tình cảm chủ nghĩa dân tộc bằng cách thăm viếng Đền Yasukuni . Dù cho Koizumi thành công chiếu lên một hình ảnh là một lảnh tụ không e sợ Trung Quốc Hay Bắc Hàn , cách ông làm đã góp phần làm suy thoái các quan hệ giữa Trung Quốc và Nhật bổn. Theo môt điều tra dư luận cho Sở nội các chánh phủ Nhât làm ra , tỉ lệ công chúng có cảm tưởng là không “thiện cảm” hay có khuynh hướng không có cảm tường “ thiện cảm” gì hết với Trung Quốc, đã gia tăng từ 48 % năm 2003 lên 63% năm 2005 . Con số thụt lui lại chỉ còn 59 % , khi DJP nắm chánh quyền, năm 2009,nhưng tăng lên lại năm 2010 đến đỉnh 78% , khi căng thẳng dâng cao về tranh chấp các đảo Biển Đông Tàu- Đông Hải , Nhật gọi là Senkaku và Tàu gọi là Điều Ngự- DiaoYu. Năm 2010 , các nhà chánh trị hửu phái Nhật bắt đầu gây nổi giận trong công chúng , khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền trên các đảo này. Các chánh trị gia vẽ hình chánh phủ Nhật lúc đó do DJP lảnh đạo yếu kém và không đủ khả năng . Năm 2012, Shintaro Ishihara , một tay dfân tộc chủ nghĩa chướng tai phe hửu, lúc đó là thống đốc thủ đô đại phố Tokyo , khởi sự là quỷ vận động để mua vài đảo này , trong thời gian này thuộc tư hửu . Bằng cách đe dọa là chánh quyền Đại phố Tokyo sẽ mua các đảo , IOshihara đã thàng công thúc đẩy chánh phủ DPJ quốc hửu hóa các đảo , gây ra những phản đối dữ dội ở nhiều thành phố, khắp Trung Quốc. Năm 2012 , một tha*m dò dư luận của Sở Nội Các cho thấy là 81% công chúng Nhật báo cáo là không “ thiện cảm” hay có khuynh huớngn không thiện cảm đối với Trung Quốc cả.
Thả lỏng dây xích Abe
Chủ nghĩa dân tộc nổi lên lại cống hiến một tấm màn căng sau cho Abe đắc cử năm 2012 và giúp giải thích tại sao Abel lại chấp nhận một hình thức công khai dân tộc hơn so với kỳ thứ nhất, khi ông tự kiềm chế không thăm viếng Đền Yasukini . Ba thừa tố khác cũng đã giúp Abe trở thành táo bạo hơn lúc này . Trước tiên, thành phần ý thức hệ của LDP đã thay đổi . Theo những nghiên cứu do Viện Đại Học Tokyo và nhật báo The Ashahi Shimbun đồng dẫn đạo , năm 2009, chỉ 61 trong số 271 ứng cử viên LDP các ghế ở tuyễn cử Hạ viện chia sẽ cái nhìn của Abe về cải cách quốc phòng và hiến pháp . Ở các tuyễn cử, năm 2012, 189 trong số 264 ứng cử viên LDP ở các ghế này , chia sẽ những lập trường của ông .
Thứ hai , Khác với năm 2006 , khi Abe đã phải sửa sọan các tuyễn cử quốc gianắm kế tiếp , lúc đó ông không phải trực diện các tuyễn cử quốc gia mãi cho đến năm 2016 . Ở Nhật , nơi chu kỳ tuyễn cử thường rất ngắn ngủi, 4 năm là cả một thiên thu . cho Abe thêm nhiều giới hạn hơn là đa số các thủ tướng gần đây phải chịu đựng . Ba là các nhà dân tộc chủ nghĩa LDP nay đã nay đã dồn thị trường tuyễn cử theo cảm tình thân Mỹ , đang trổi dậy như thể là những kẻ đề xướng ồn ào nhất cho một liên minh quân sự với Hoa Kỳ. Kể từ khi Hoa Kỳ cũng muốn cũng cố liên hệ quân sự vớiNhật bổn , một khía cạnh trung tâm “Ngõng trục – Pivot” của chánh quyền Obama ở Á Châu, Abe biết rỏ là Hoa Kỳ có rất ít lựa chọn ngòai việc ủng hộ ông và các đồng minh ông , ngay cả nếu các khiêu khích của ông làm cho Hoa Thịnh Đốn nhức đầu .
Chiếu theo nhưng điều kiện chánh trị thuận lợi này, trừ phi nền kinh tế chùn bước tệ hại hay một tai họa xảy ra , Abe có nhiều cơ hội tr ởnên một thủ tướng Nhât lâu dài hiếm có. Đó là diều tốt cho chánh trị Nhật , có phương sử dụng làm thời gian nghỉ ngơi chốc lát từ các đảng phái yếu kém , ngay cả các lảnh tụ yếu kém hơn nữa . Có lẽ Pilling xem đó là một thí dụ khác của Nhật Bẻ cong Ngịch ảnh – Benđing Adversity , lợi thế cho Nhật. Nhưng thành công của Abe trong nước, không phải là điềm tốt cho vùng rộng lớn hơn. Quay qua chủ nghĩa dân tộc, Nhật sẽ làm ra một hòa giải ở Á Châu khó khăn hơn , vì chưng Trung Quốc và Hàn Quốc ( Nam Hàn )sẽ ít cảm tưởng nghiêng về điều đình trên các tranh chấp lảnh thổ với một tay chủ nghĩa dân tộc đã chiếm địa vị một phần nhờ vào thái độ cứng rắn trên các đảo Diaoyu/ Senkaku và đặt câu hỏi về tầm xâm lược qúa khứ của Nhật.
Pilling nhấn mạnh là dù tỉ xuất chấp thuận Abe tương đối cao , đa số dân Nhật không ủng hộ các nhà chủ nghĩa dân tộc Nhật. Và có lẽ Pilling đúng lý . Nhưng dư luận công cộng đến một một vấn đề kiện tụng lôi thôi có thể thay đổi mau lẹ. Về vụ các nhà chủ nghĩa dân tộc kiểm sóat lịch trình chánh sách , họ không cần phải duy trì một ủng hộ tràn đầy của công chúng, vì số người đi bầu ít ỏi . Đây cũng là hiện tượng quen thuộc cho dân Hoa Kỳ, vì rằng đa số kẻ có thể đi bầu chánh thức lại không đi bỏ phiếu bầu, các kêu gọi xúc động chỉ có thể động viên , một thiểu số các người đi bầu cam kết có cơ làm thành một khác biệt to lớn ở các cuộc tuyễn cử. Abe và đảng LDP tuồng như đã nghiêng về các nghịch cảnh đặc biệt chánh trị Nhật cho cứu cánh của họ, tạo ra một môi trường mới , rắc rối hơn cho Nhật bổn và cho phần còn lại trong vùng.
(Irvine , 6 tháng 5 năm 2014 )
/5/2014