.
  Phát triển tỉnh An Giang
 
10/7/2014

                                             

      

Thấy anh hay chữ, em hỏi thử đôi lời,

                                              Chớ Năm Non , Bảy Núi vậy thời ở đâu ?

                                              Năm Non ở tại xứ Đà ( Nẳng ),

                                              Bảy Núi Châu Đốc gọi là Thất Sơn.

                                              Đèn nào cao cho bằng đèn Châu Đốc

                                              Dốc nào cao bằng dốc Nam Vang,

                                              Đói no em chịu cùng chàng,

                                              Xuống sông ra biển, lên ngàn cũng theo .    

                                                      ( Ca Dao miền Nam )

 

Trong thực tế thì  An Giang còn  bờ sông phía Tây Nam của dòng sông Trước ( Tiền Giang ). Bờ  phía Tây và luôn cả Cù lao Tây trên sông Tiền  thuộc tỉnh Đồng Tháp , còn Cù lao Giêng phía dưới thuộc  An Giang,  nhưng bờ  phía đông Cù lao Giêng lại thuộc Đồng Tháp. Thị trấn Chợ Mới gần nơi hai nhánh sông Tiền nhập  một,  gần Cù Lao Tây. Hai đô thị lớn nhất Châu Đốc và Long Xuyên đều nằm trên sông Hậu .

  

            Vị trí, phân chia hành chánh ngày nay


           

        Tọa độ  tỉnh An Giang là  10030’  vĩ tuyến Bắc và 105010’ kinh tuyến Đông .

        Phía  Tây Bắc, An Giang  chia sẽ 100 km biên giới với Căm Bốt thuộc 3 tỉnh Pray Veng ( không phải là tỉnh kế  cận  Svay Rieng)  có thị trấn lịch sữ Miên-  Việt là Ba Nam, Kang Dan và Tà Keo ( ? ).  Phía Đông, giáp tỉnh Đồng Tháp . Phía Đông Nam giáp  TP Cần Thơ.  Phía Tây Nam giáp  tỉnh Kiên Giang. Diện tích An Giang năm 2001 ghi là 3 406.2 km 2( 1 315,1 dặm Anh vuông) nhưng  tài liệu  năm 2010  lại cho biết diện tích này là 3 536.8 km2 . Năm 1999 dân số An Giang là  1970 100 người; năm  2001 là 2099 400; năm 2004 là  2 170 100 ;  nhưng năm 2010 lại  ghi chỉ còn  2149 500?  và năm 2011 là  2 151 000 .  Thủ phủ là TP Long Xuyên. Châu Đốc là thành phố thứ hai của tỉnh.  Một thị trấn lớn là Tân Châu.  Về phương diện hành chánh, An Giang hiện có 9 huyện là An Phú ( 2  thị trấn  và 12 xã nông thôn) , Châu Phú - Cái Dầu  (  1 thị trấn và 12 xã ) , Châu Thành - An Châu ( 1 thị trấn và 12 xã), Chợ Mới ( 2 thị trấn và 16 xã ), Phú Tân- Chợ Vàm ( 2 thị trấn và  16 xã ) , Tân Châu - Phú Châu ( 5 phường và 9 xã ),  Thọai Sơn- Núi Sập  (  3 thị trấn và 14 xã ) , Tịnh Biên- Nhà Bàng ( 3 thị trấn và 11 xã ) , Tri Tôn  ( 2 thị trấn và 13 xã ). Các tộc dân An Giang gồm Kinh - Việt , Khmer, Chăm (Chàm ) và Hoa. Vì  gần Căm Bốt  nên Khmer Krom  là tộc dân đông nhất tỉnh nhà không thuộc nguồn gốc Kinh - Việt.   Kế  tiếp theo là tộc dân Chăm ( còn có tên là Chà Châu Giang, không phải là  Chà Và - Java tuy  từ Chà là tên rút gọn của Chà Và ) theo  đạo hồi giáo Sunni Islam, khá đông,  tuy ít hơn dân Kinh- Việt,    ở thành phố Châu Đốc .     

 

         Suôi dòng lịch sử

 

         An Giang ( và Châu Đốc ) là một trung tâm  quan trọng của nền văn minh Ốc Eo - Phù Nam xưa cũ, cách đây một ngàn năm,  đã biến mất một dạo và sau đó nhiều vùng đất đai Phù Nam đã bị một tiểu quốc là Chân Lạp xâm chiếm, đô hộ . Vì văn mình Ốc Eo- Phù Nam  đã được đề cập nhiều ở các bài về tỉnh Long An, tỉnh Đồng tháp … nên không nói thêm ở đây nữa .

 

              

 

         Công lao mở nước Nam Tiến của công nương Ngọc Vạn lớn hơn công chúa Huyền Trân nhiều.

        Năm 1620, Chúa Sải Nguyễn Phúc Nguyên , nghĩ đến Đồng Bằng sông Cửu Long,  gả người con gái thứ nhì  Nguyễn Phước Ngọc Vạn  cho vua Chân Lạp là Chey - Chetta II trị vì từ  1618 đến 1628. Năm  1623, nhờ sự vận động  của Hoàng hậu  Ngọc Vạn,  vua Chân Lạp nhường lại khu dinh điền vùng Mô Xòai- Bà  Rịa  cho người Việt khai thác. Năm  1658, Thái hậu Ngọc Vạn  chỉ cách cầu cứu chúa Nguyễn cho  hai hòang  thân So và Ang Tan  đánh vua Chân Lạp là Nặc Ông  Chân( trị vì 1642- 1659) . Chúa Hiền Nguyễn Phước Tần cử Phó tướng dinh Trấn Biên  ( Phú Yên lúc đó ) là Tôn Thất  Yến, đem 3000 quân qua giúp, bắt được Nặc Ông Chân ở vùng Mô Xòai, đem về giam ở Quảng Bình. Nặc Ông Chân từ trần năm 1659. Chúa Nguyễn phong So lên là vua Chân Lạp tức là Batom Reachea , trị vì 1660-1672.  Năm 1672,  vua Baton Reachrea bị giết. Vợ Batom Rachea  sát hại được  kẻ đã giết chồng mình, đưa con Batom Rachea lên  ngôi là Ang Chai, sử Việt gọi là Nặc Ông Đài . Ông Đài liên kết với Xiêm La đưa quân phòng thủ Sài Côn, chống lại Đại Việt. Năm 1674, Chúa Hiền cử Cai cơ Nguyễn Dương Lâm  thuộc dinh Thái Khương, đem quân đánh  chiếm Sài Côn và tiến lên Nam Vang,   Nặc Ông Chân trốn vào rừng rồi bị  thuộc quyền giết chết .   Ang Tang cũng tử trận, trao quyền lại cho con là Ang Non, tức là Nặc  Ông Nộn, đóng quân ở Oudong-Long Úc .   Em Nặc Ông Đài là  Ang Saur, sử Việt gọi là Nặc Ông Thu,  đuổi Nặc Ông Nộn xuống Sài Côn. Chúa Hiền  nhận Nặc Ông Thu làm chánh quốc vương đóng ở Oudong và lập Nặc Ông Nộn làm đệ nhị quốc vương, đóng ở Sài Côn.

     

      Thành lập chánh thức tỉnh An  Giang năm 1832

 

       Năm 1698,  chúa Minh Nguyễn Phước Chu cử  Nguyễn hửu Cảnh (hay Kính) kinh lược đất Chân Lạp. Nguyễn hửu Cảnh lấy đất Đồng Nai  đặt thành huyện Phước Long lập dinh Trấn Biên ( nay là  Biên Hòa ), lấy đất Sài Côn đặt thành huyện  Tân Bình lập dinh Phiên Trấn ( Gia Định ngày nay ). Năm  1735, tổng binh  đất Hà Tiên là Mặc Cửu thần phục Đại Việt năm 1708, từ trần.  Chúa Minh phong cho  con là Mạc Thiên Tứ ( Tích)  thay cha làm  đô đốc trấn Hà Tiên. Năm  1744, Chúa Vỏ Nguyễn Phước  Khóat,  cầm quyền  từ 1738 đến 1765,  chính thức xưng vương hiệu,  chia Xứ Đàng Trong ra làm 12 dinh, có 3 dinh thuộc đất Chiêm Thành cũ là dinh Phú Yên, dinh Bình Khương ( Khang ) và  dinh Bình Thuận  và  3 dinh thuộc đất “ Chân Lạp cũ”  là dinh Trấn Biên, dinh Phiên Trấn và dinh Long Hồ .

        Năm 1757,  vua Chân Lạp là Nặc Tôn  dâng đất Tầm Phong Long ( nay là tỉnh An Giang và hai huyện Tầm Đôn và Xuy Lạp tỉnh Vĩnh Long ). Chúa chia đất này thành 3 đạo: đạo  Đông khẩu  ở Sa Đéc, đạo Tân Châu  ở Tiền Giang và  đạo Châu Đốc đạo ở Hậu Giang. Theo Lâm văn Bé( Dòng Việt 2005 ) đến năm 1768 ,  cuộc Nam Tiến  của dân Việt Nam  coi như chấm dứt . Lảnh thổ Nam kỳ lúc này chia thành 3 tỉnh : Đồng Nai ( bao gồm  các tỉnh miền Đông )  Sài Gòn (  bao gồm  các vùng đất  từ sông Sài Gòn đến cửa Cần Giờ ) và Long Hồ ( bao gồm các vùng đất miền Tây ). Theo Phan Khoang (  Việt sử Xứ Đàng Trong- Quyển Hạ ), năm 1769, vua Tiêm ( Xiêm La -  Thái Lan ngày nay ) Trịnh Quốc Anh  tổ chức một  cuộc chinh phạt lớn  để diệt hai con vua  cũ, đánh chiếm Tô Châu và Hà Tiên, đuổi Thiên Tứ và các con  chạy xuống Kiên Giang - Rạch Giá, Trấn Giang- Cần Thơ. Lưu thủ Long Hồ Tống phước Hợp đem binh thuyền tới cứu, kéo thẳng tới sông Châu Đốc  chống cự. Năm  1772,  Chưởng cơ Nguyễn cửu Đàm ( con Nguyễn cửu Vân ), khâm sai chánh thống xuất và Trần phước Thành tham tán quân vụ,  đem 10 000 quân thủy bộ hai dinh Bình Khương và Bình Thuận  và 30 chiến thuyền vào Gia Định đánh Chân Lạp. Tháng 6  năm 1772, Tống phước Hợp tiến đóng giữ Châu Đốc. Nguyễn khoa Thuyên đem 3000 quân và 50 thuyền đánh Tiêm, nhưng  thua phải rút về Kiên Giang;  sau đó  tiến lên Nam Vang  phá được quân Tiêm, vua Tiêm và Nặc Nộn  đều bỏ chạy. Quân Việt thu phục các phủ Nam Vang, La Bích  và Nặc  Tôn trở về nước. Năm 1775, Nặc Tôn nhường ngôi cho Ang Non II, tức Nặc Vinh,  trị vì  1775 - 1779. Nặc Vinh không ưa  người Việt và  thân Tiêm. Sau khi quân Tây Sơn nổi dậy, quân nhà Nguyễn Phước Gia Định yêu cầu Nặc Vinh giúp đở , nhưng Nặc Vinh từ chối, và cũng không nạp cống nữa. Năm 1776, chúa Duệ Tông Nguyễn Phước Thuần  sai Nguyễn Phước Ánh đem quân đánh.  Nặc Vinh biết nên đem quân chiếm Mỹ Tho và Vĩnh Long, nhưng không giữ được lâu. Từ năm 1780, Đại Việt đã kiểm sóat gần như hòan tòan 6 tỉnh Nam Kỳ ngày nay. Năm 1832,  Vua Minh Mạng đổi tên trấn thời vua Gia Long và lập 6 tỉnh  (Nam  Kỳ Lục  tỉnh ) thay cho 5 trấn thời vua cha; trong số 6 tỉnh này có tỉnh An Giang.   

       Vào thế kỷ thứ 19, nước Căm Bốt tiếp tục là nơi hai quốc gia Việt Nam và Tiêm La tranh dành ảnh hưởng, can thiệp vào nội tình Chân Lạp. Triều đình  Chân Lạp  chia ra làm 2  phe phái  đối thủ : một phe thân Việt- Nguyễn và một phe thân Xiêm- Chakri .  Dù vua  Chân Lạp năm 1806, có  gửi  triều cống sang cả  hai thủ đô  Vọng Các - Bangkok và Huế đi nữa, vua cũng không đem lại hòa bình lâu dài  cho xứ sở ông . Tranh chấp giữa  vua và các anh em  vua,  khiến năm 18 13, cả Tiêm lẫn Việt đều gửi quân đến Cam Bốt. Tiêm La  chiếm các tỉnh Tonlé Repou,  Stung Chen và  Mlu Prey.  Đại Việt khi  đặt Nặc Ông Chân lên  ngôi lại đòi quyền chánh thức bảo hộ Chân Lạp.  Năm 1833 , quân Tiêm tấn công Việt Nam trên 5  chiến tuyến ở Lào và ở Cambốt . Khi bị đẩy lui , bảo hộ  Cam Bốt biến thành  xâm chiếm . Năm 1834, vua Minh mạng  biến Căm Bốt thành “ Trấn Tây Thành” , chia ra làm 32 huyện  và thi hành một chánh sách đồng hóa triệt để .   Chánh sách gây ra nhiều óan hận  nên dân Miên nổi lọan khắp nơi , đặc  biệt do hòan thân  Nac  Ông Duang - Nặc Ông Dương lảnh đạo,   có Xiêm La ủng hộ sau lưng .  Vua Thiệu Trị năm  1841 , phải ra lệnh rút quân . Nhưng rồi Xiêm La lại  khai thác Căm Bốt , khiến Căm Bốt phải cầu cứu Việt  Nam .  Căm Bốt thành  chư hầu của cả hai nước Xiêm La và Việt Nam.   Tình trạng này kéo dài mãi  cho nên năm 1863, sau khi Pháp đã chiếm Sài Gòn . thành lập nền bảo hộ Căm Bốt.   Thỏa hiệp này do vua Norodom  cha  vua Sihanouk ký ngày 11 tháng 8 năm 1863, lại không đề cập gì đến biên giới Việt- Miên,  dù rằng chính nó  là nguyên nhân vua Norodom xin Pháp bảo hộ . Theo nhà  khảo cỗ học Pháp  Franois Maspero ( tài liệu số 8, năm 1975 ),  chánh quyền thuộc địa Nam Kỳ      đã định ranh giới hai nước một cách độc đóan, không hỏi gì  hai nước này gì cả. Chẳng hạn biên giới giữa Miên và Xiêm La  thay đổi , tùy thuộc thời kỳ và lực lượng quân sự giữa Pháp và Tiêm . Trong phiên bàn cải ngày  9 tháng 3 năm 1949 tại Quốc Hội Liên Hiệp Pháp -  Union francaise , phái đòan Căm Bốt tỏ ra chia rẽ nhau, và việc Căm Bốt đòi lại các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc, Long Xuyên và một phần các tỉnh Rạch Giá, Sa Đéc,Tân An,Tây Ninh ,đảo Phú Quốc, bảo vệ các thiểu số Khmer, sử dụng cảng Sài Gòn và quốc tế hóa sông Mê Kong,  theo bà  Marie -Alexandrine Mar tin ( Le mal Cambodgien , 1989 ) , không được mấy ai ủng hộ , ngọai trừ vài dân biểu đảng xã hội Pháp. Năm 1953, khi Căm Bốt dành lại quyền độc lập nước nhà,  cũng không đòi hỏi thêm gì hơn được, phải theo các  đường ranh giới đã vẽ ra từ năm 1870 đến năm 1914. Tháng 8 năm 1959, vua Norodom Sihanouk  đến Sài Gòn đề nghị với tổng thống Đệ  Nhất Cộng Hòa  chịu bải bỏ  “ quyền hạn lịch sử -  droits historiques” đòi  lại các tỉnh miền Đông và  miền Tây, nếu Việt Nam chịu  công nhận nhận các ranh giới hai nước . Nhưng tổng thống Diệm lại phản đề nghịranh giới Sihanouk đưa ra và Sihanouk không chịu. Vào đầu thập niên 1960, quân đội Cộng Hòa miền Nam thi hành “ quyền đuổi theo-  droit de suite”  quân Giải Phóng miền Nam FNL  và quân Bắc Việt, đặc biệt ở  “vùng Mỏ Vịt- Bec de canard, Viêt Nam lại gọi là Mỏ Vẹt”  tỉnh Tây Ninh, năm 1870  thống đốc Nam Kỳ đã đề nghị nhập vào lảnh thổ Việt Nam. Tuy nhiên, cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa miền Bắc lẫn FNL, đều nhìn nhận các ranh giới thuộc địa hay ranh giới “ hiện hửu -actuelles “ .Nhưng Đường mòn Hồ Chí Minh dùng chở người và vật dụng đánh  Cộng Hòa Miền Nam, đồng thời cũng là căn cứ trú ẩn, bệnh viện, kho dự trữ lương thực võ khí, các trung tâm huấn luyện, trên đất Căm Bốt  gần các tỉnh biên giới Việt Nam  Cộng Hòa, nên nhìn nhận  không có giá trị tí nào cả.  Miền Tây Bắc Cam Bốt thuộc các tỉnh  Stung treng, Ratanakiri, Mondulkiri thực tế do các Cọng Sản Việt Nam và  đồng minh lúc đó là Khmer Đỏ kiểm sóat.  Sau năm 1972  và đến năm 1975,  một số Khmer Đỏ, tinh thần quốc gia qúa khích, bắt giết hay đuổi cư dân Việt Nam khỏi  vùng này.  Sau khi Pol Pot thắng chánh phủ Lon Nol, năm 1975,  Bắc Việt  vẫn cố tâm xâm nhập  các tỉnh biên giới Miên - Việt, nhưng bị chống đối khó khăn lớn. Riêng về tỉnh An Giang, phải kể đến vụ  Khmer Đỏ tàn sát dân làng Ba Chúc. Theo Wikipedia -  tháng giêng 2014 ( “ chronologie Cambodge de1960 à 1990”- Khmercanada.site.voilà.,  ngày 02 tháng 6 năm 2013 ), khi Khmer Đỏ khởi sự đột kích vào các tỉnh từ Tây Ninh  xuống đến Hà Tiên và các đảo Biển Tây , ngày 15 tháng tư năm 1975, Ba Chúc là một làng  nhỏ an lành, có 3500 người. Trong 2 tuần lễ, kết thúc ngày,30 tháng tư năm 1978, Khmer Đỏ giết chết hết những ai thở được, chặt tay chân trẻ em và chặt người lớn ra làm nhiều khúc . Khi  Khmer Đỏ rút lui, làng Ba Chúc chỉ còn 2 người sống sót . ...           

 

     Địa hình, địa danh tỉnh An Giang

 

   Địa hình An Giang thuộc ĐBSCL gồm  phần lớnlà  đất thấp khó thóat nuớc, cao độ trung bình 4- 10m .  Vùng  núi thấp là Bảy Núi - Thất Sơn thuộc hai huyện  Tri Tôn và Tịnh Biên và núi Sam . Núi cao nhất Bảy Núi -Thất Sơn  là núi Cấm, cao  710m cũng là  núi rộng lớn nhất  gần làng An Hảo  huyện Tịnh Biên.  

      Núi Sam,  cao gần 1000m ( ? )có tài liệu ghi chỉ cao  241m ( ? )  và rộng 280 ha ở   xã Vĩnh Tế , thị xã Châu Đốc,  cách trung tâm thị xã 5km .  Tên gọi là Sam vì nhìn từ xa  trông núi tựa một con cua lớn hình rau sam  đen -  Black Portulaca King Crab, dán vào ngay chính giữa một cánh đồng bao la xanh ngắt.  Một truyền thuyết khác  thì đây là một hòn đảo giữa biễn có nhiều cây rau  sam mọc  nên đảo có tên là  Hòn Lảnh Sơn hay Hòn Sam.  Đường lên đỉnh núi, cây cối mọc xanh tốt ở các sườn núi.   Du khách có thể đi bộ hay thuê xe tắc xi chở lên núi. Từ đỉnh núi có thể   nhìn thấy thị xã Châu Đốc, một bức tranh vẽ nhà cao ráo, xây cất dọc theo kênh đào thuần khiết và thơ mộng .  Nhưng nổi tiếng hơn hết  là núi có Miễu Bà chúa Xứ , chùa Tây An và lăng Thọai Ngọc Hầu.  Miễu bà Chúa Xứ  là một ngôi miếu rộng, ván  gạch, lợp ngói, nơi chánh điện có pho tượng Bà rất to , sơn phết rực rỡ. Tượng kiến trúc theo các nhà tạc tượng Bà La Môn, khỏang trước thời Đế Thiên Đế Thích - Angkor Vat. Hai bên bàn thờ có 2 câu đối nói lên sự linh ứng của bà :

                  “ Cầu tất  ứng, thành tất linh, mộng trung chỉ thị,      

                    Xiêm khả kính, Thanh khả mộ, ý ngọai nan lường”   

Tín ngưỡng Bà Chúa Xư’ chịu ảnh hưởng hay đã được vay mượn của người  Chàm. Hai lễ hội  qui tụ  đông đảo quần chúng nhất là  ngày ‘Vía Bà” ở núi Sam (ngày 25 tháng 4 âm lịch) và ngày kỷ niệm thành lập Phật Giáo Hòa Hảo( ngày  18 tháng 5 âm lịch) ( Nguyễn Thanh Liêm - Châu Đốc, tháng giêng 2006 ). Cách Miễu Bà Chúa Xứ chừng vài trăm thước là chùa Tây An , xây cất vào  năm Thiệu Trị thứ bảy ( 1847 ). Chùa chứa đến  140 cốt phật và thờ  cả tượng Thần Nông, Hùynh Đế, Ngọc Hòang  và tượng  phật Thầy Tân An, tên thật là Đòan Minh Huyên (  1807 -  1856 ).  Đạo Phật Thầy Tây An giản dị hóa thủ tục thờ cúng , không gõ mõ tụng kinh,  không cạo đầu mặc áo cà sa, không cần phải xây cất chùa, xây tượng Phật .  Tu ở đâu cũng được, miễn tránh  điều ác, làm điều lành, thực hành bốn ơn lớn - Tứ Ân ( là ơn tổ tiên cha mẹ, ơn đất nước, ơn tam bảo, ơn  đồng  bào nhơn lọai) . Giáo lý Phật Thầy  có phần mâu thuẩn  với khung cảnh chùa Tây An , có hàng trăm tượng phật bên trong.Thật ra chùa đã xây dựng trước khi Phật Thầy bị Pháp thuộc địa  an trí, đưa về Châu Đốc để dễ bề kiểm sóat . Đạo Phật Thầy Tây An  còn có tên là Bửu Sơn  Kỳ Hương , nguồn gốc của   Phật Giáo Hòa Hảo sau này.  Năm 1939, theo chú thích của Trần Gia Phụng ( Dòng Việt - 2005 ),  ông Hùynh Phú Sỗ ( 1919- 1947 )  thành lập Phật Giáo Hòa Hảo,  chủ trương học tập, tu nhân, cải cách đạo Phật  theo đúng với đời sóng thực tế của người nông dân Việt Nam  và giản dị hóa  thủ tục, tổ chức theo nền tảng của Bửu Sơn Kỳ Hương.

   Lăng Thọai ngọc Hầu, tên thật là Nguyễn văn Thọai, gốc tỉnh Quảng Nam, cũng nằm ở chân núi Sam  bên trái con đường Châu Đốc - Tịnh Biên . Sau nhiều bậc đá, sẽ lên đến một sân rộng, phía trước có 4 trụ đá khổng lồ và bên trong có nhiều ngôi mộ cao, thấp. Sau hàng chục ngôi mộ là  một đền  thờ xây bằng tường vôi, dưới  những tàn cây u nhã, tựa  lưng vào  núi Sam. Đó là lăng Thoai Ngọc Hầu,  theo vua Gia Long đánh Tây Sơn, công cán bên Xiêm, bên Miên và Lào, giữ nhiều chức quan trọng như chưởng cơ Bắc Thành, trấn thủ Lạng Sơn,  trấn thủ ĐịnhTường, trấn thủ Vĩnh Thanh, Bảo Hộ Cao  Miên, Khâm sai thống chế án thủ Châu Đốc v.v… Nhưng 2 công tác được  người đời nhớ nhiều nhất là con kinh chạy dài  từ Châu Đốc đến Hà Tiên, dọc theo biên giới Miên - Việt vua Minh Mạng đặt  tên Vĩnh Tế Hà  ( Vĩnh Tế là  danh  xưng của Nhất phẩm Phu nhân Châu thị Tế, vợ  của Bảo hộ Thọai )  và con kinh thứ hai ăn thông từ Long Xuyên qua RạchGiá, triều đình nhà Nguyễn Phước đặt tên là  Thọai Hà.  

   Núi Cấm là  một trong Bảy Núi - Thất Sơn. Bảy núi là Núi Két - Anh Vũ Sơn,  Núi Giày 5 giếng - Ngũ Hồ Sơn, Núi Gấm hay Núi Cấm - Thiên Cẩm Sơn, Núi Tượng -  Liên Hoa Sơn, Núi  Nước gần Núi Tượng  - Thủy Đài Sơn, Núi Dài -  Ngọa Long Sơn  và Núi Tôi - Phụng Hòang Sơn. Năm Non là  5 cái chỏm cao( còn có tên là Vồ ) cuả Núi Cấm là Vồ Bò Hong , Vồ Đầu , Vồ Bà ,  Vồ Ông Bướm và Vồ Thiên Tuế. Thất Sơn nằm trong tam giác  Tịnh Biên - Nhà Bàng - Tri Tôn,  choán một khu vực dài 30 km, bề ngang  17 km, 1/7  diện tích Châu Đốc,  là một pháo đài vô cùng kiên cố bên cạnh  Kampuchia  và Thái Lan, nơi trú ẩn - mật khu   những anh hùng chống Pháp cuối thế kỷ  thứ 19  sang đầu thế kỷ thứ 20  và là cái nôi  của Phật Giáo miền Nam - Bửu Sơn Kỳ Hương . Truyền thuyết thứ nhất là Núi Cấm có nhiều  thú bắt mồi rất nguy hiểm nên cấm người lai vãng.  Truyền thuyết thứ hai là Chúa Nguyễn Phước Ánh  trốn núp Tây Sơn truy nả ráo riết ở vùng núi này,  cho nên vì lý do an tòan cấm mọi người đến gần núi . Trên cao nguyên rộng của Núi Cấm , những  thắng cảnh  nổi tiếng là   dòng nước sông Thanh Long an bình, Động Thủy Liêm bí ẩn,  Vồ Bạch tượng  ( Hòn đá lớn hình Con voi Trắng ) và chùa cũ Vân Linh .   

   Một thắng cảnh khác  của An Giang là khu rừng tràm Trà Sư,  ở xã Vân Giao  thị trấn Tịnh Biên. Thời gian thích hợp nhất viếng thăm  lọai rừng đặc thù của ĐBSCL  này là từ tháng 9 đến tháng 10. Lúc đó, nước trong rừng tràm cao 3- 4 m , ngập cả mọi đường mòn và mặt nước  phủ tràn đầy 2  lọai bèo nhỏ nhất là  bèo phấn Wolffia, lòai Wolffia Arrhiza   xoan tròn , lục đậm  và lòai Wolffia globosa, tròn dài, lục trong nhiều quốc gia trồng để ăn. Tông Wolffia thuộc họ thực vật   bèo cám - Lemnaceae.  Đến khu rừng tràm Trà Sư bằng hai cách : hoặc lái xe mô tô trên đường kinh hay chèo thuyền “  Vồ lái” còn có thể  nhìn  thấy hoa điên điển  vàng Sesbania sesban một trong số 8 lòai Sesbania sp. hiện diện ở nước nhà ( lòai dân Việt thị thành  biết nhiều nhất  là So đủa Sesbania grandiflora , hoa trắng  )...      

    Núi Cô Tô, cao  614m gần thị trấn Tri Tôn nhất, theo một  truyền thuyết khi mới lập thiên lập địa, Trời Đất còn tăm tối,  một  Lão Tiên từ Núi Cấm và  Núi Giày  mang những tảng đá xếp chồng chất nhau  cho đến rạng đông  thì xây xong Núi Cô Tô. Một truyền thuyết khác lại cho hình dáng núi giống một  tô ( chén, bát ) úp , nên mới có tên là Tô. Trên núi, có  một  nơi nổi danh tên gọi là SânTiên, theo truyền thuyết  là dấu chân Đức Phật Tổ . Đường lên núi đẹp đẽ này, có những góc che lấp những căn nhà lợp lá ,  thỏang gió thổi mùa hương  lúa gạo . Cô Tô đẹp  nhất  đêm sáng trăng.  Lúc đó mỗi phiến lá  trông tựa mỗi lá bạc  gắn  vào,  dọc theo  các dòng suối Ô Thum , Ô Thoa , hồ Ô Soài So ( ? ).

     Di tích Ốc Eo,  dưới chân núi Ba Thê,  do nhà khảo cổ  Pháp Malleret khai quật hồi thập niên 1940, phía Nam Núi Sập - Thoại Sơn,  trước đây thuộc Kiên Giang ,nhưng nay thuộc An Giang ( như đồi Tức Dụp, phía Đông Nam Tri Tôn  ghi là thuộc An Giang, nay thuộc Kiên Giang ? ), cách Biển Tây hơn 30 km,  xưa kia có thể là một đô thị vừa là thương cảng ( đã buôn bán với Đế Quốc La Mã)    của một nền văn minh   vương quốc Phù Nam  trải rộng  cả vùng Đồng Nai - Cửu Long qua tận Kamphuchia phần đất Xiêm Lào,  thời gian từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII  của thiên niên kỷ thứ nhất . Văn minh đô thị - thương cảng Ốc Eo Ba Thê An Giang, có thể xem là tiêu biểu  cho một quốc gia cỗ xưa, hình thành sớm nhất Đông Nam Á  .

         …

 

    Danh nhân An Giang

 

               

                   (Đền thờ Thoại Ngọc Hầu, Nùi Sam Châu Đốc)

 

       Ngoài công đầu mở cõi của Công nương Ngọc  Vạn; kế tiếp là Lễ Thành Hầu  Nguyễn hửu Cảnh ( Kính ), tuyên bố chủ quyền  pháp lý Việt Nam ở các tỉnh Miền Đông và miền Tây, làm thống binh tiến tận Nam Vang và nhiễm bệnh  nặng khi ngừng quân tại Cù Lao Tiêu Mộc   - Cồn Cái Sao, Chợ Mới - Long Xuyên ( sau đó đổi tên là Cù lao ông Chưởng -chưởng cơ thống xuất; thống binh Trần Đại Định con của tướng Long Môn Trần Thượng Xuyên năm 1731, đánh chiếm Bà Nam,  khi  người Lào Sà Tốt và quân Chân Lạp tràn xuống Gia Định  tàn sát nguời Việt;  Mạc thiên Tứ ( Tích )  mở mang đất Tầm Phong Long, sau khi Nặc Tôn dâng đất này và Chúa Võ thiết lập đạo  Tân Châu và  đạo Châu Đốc; Thọai Ngọc Hầu  và vợ là Châu thị Tế  đốc thúc đào hai đào kinh lớn công đầu bảo vệ, mở mang vùng tứ giác Long Xuyên, tưởng cũng không nên quên Quản Cơ Trần Văn Thành   ( 187 67 - 1873  )  rút quân về Láng Linh   chống giữ vùng  An Giang Châu Đốc, như Quản cơ Nguyễn Trung Trực chống giữ Rạch Giá, Phú Quốc . ...

   Trên phương diện chánh trị là :- Nguyễn Ngọc Thơ người thị xã Long Xuyên, từ năm 1957 đến tháng 11 năm 1963 là Phó Tổng thống Đệ Nhất Cọng Hòa; các năm 1945 - 54 ( ? ) là tỉnh trưởng Long Xuyên,  chuyên viên cố vấn cho tòan quyền Decoux phát triễn kinh tế cho Miền Nam ( như Đòan Thêm lúc đó là chuyên viên cố vấn cho Decoux phát triễn kinh tế miền Bắc )  và có một thời gian ngắn làm thủ tướng chánh phủ cho  chánh quyền  tướng lảnh đạo đảo chánh năm 1963 Dương Văn Minh  -  Tôn Đức Thắng, quê ở Mỹ Hòa Hưng - Long Xuyên , trước tháng tư năm 1975 là chủ tịch ( Tổng Thống ) Việt Nam Dân chủ Cọng Hòa miền Bắc  và sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 là chủ tịch - tổng thống đầu tiên của Việt  Nam Thống nhất- Việt Nam  Cộng hòa Xã hội- Socialist Republic of Việt Nam .   

    Về  văn hóa, văn chương nghệ thuật…,   có lẽ nên kể ra vài  nhân vật sau đây:

    -   Nhà văn Nguyễn Chánh Sắt (  1869 - 1947 ) sinh ở Tân Châu - Châu Đốc, tác giả 10 cuốn tiểu thuyết  lý tưởng, trinh thám, nghĩa hiệp. Phổ biến nhất là tập Nghĩa Hiệp Kỳ  Duyên ( 1919 - 1920 )

    -   Nguyễn Trọng Quyền bút danh là  Mộc  Quán sanh năm  1876  tại làng Thạnh Hòa , huyện Thốt Nốt ,tỉnh Long Xuyên cũ ( nay thuộc tỉnh Cần Thơ ?)  trút hơi thở cuối cùng tại nhà thương Châu Đốc năm 1953. Là  sọan giả, trong 50 năm ,sáng tác  được  85 vở tuồng  cải lương được nhiều đòan hát sử dụng như  Phụng Nghi Đình, Mạnh Lệ Quân thốt hài,  San Hậu, Tây Sương Ký, Tái  Sanh Duyên , Vạn Huê Lầu… và  3 truyện thơ . Mộc Quán  sử dụng lối ước lệ và tượng trưng của Hát Bội, rút kinh nghiệm của lọai hát tiều và lối hát của Hý Khúc thời Nhà Nguyên ( Mông Cổ ), biến chế thành một lối hát tuồng Tàu cho  các nghệ sĩ Việt Nam  như Phùng Há, Năm Phỉ, Năm Châu, Bảy Nhiêu, Tư Thới … ( Nguyễn Phương - 2006 )

     - Nguyễn Hiến Lê  ( 1912- 1984 ), sinh ở  Hà Nội ,viết văn  tại Sài Gòn, nhưng sau 1945  lại dạy học lâu ngày ở Long Xuyên, vợ thứ hai là  Yên thị Thiệp người Long Xuyên, cho nên khi chết, cốt tro tàn  cất giữ ở Long Xuyên , trước khi di dời về Sài Gòn . Sách liên quan  đến An Giang nhất là Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười,  xuất bản năm 1954.

       - Vương  Trung Hiếu,  sinh năm 1959 ở Long Xuyên,  năm 2011 còn sinh sống tại Bangkok Thái Lan. Bắt đầu tập viết văn năm  1987. Các tập truyện phổ thông của ông là Tình Khúc  Hồng ( 1991 ), Ngày chúng ta quen nhau ( cũng năm 1991 ),  Hương Quỳnh ( 1992 ),  Đầu Tóc Rối  ( 1993 ). Các thi nhân , văn sĩ họa sĩ khác  là nhà văn Nguyễn Quang Sáng( Chợ Mới ), nhà  văn Anh Đức ( Châu Thành ), nhà văn Trịnh Bửu Hòai ( Châu Đốc ), nhà thơ  Viễn Phương ( Tân Châu ), họa  sĩ hài hước Chóe ( Chợ Mới )...  

      Về phía ca sĩ  đáng kể nhất sinh quán An Phú - Long Xuyên (năm 1945 ?) là ca sĩ cải lương  giọng ngọt ngào Bạch Tuyết . Năm  1961  đã nổi danh với bài ca “ Lá Thắm Chỉ Hồng”  và đã  được xem là “ Cải Lương Chi Bảo”. Năm 1963,  đọat  giaỉ thưởng Thanh Tâm.  Bạch Tuyết đã hát  400 bài ca cải lương,  trong đó nên nhắc thêm các bài “ Kiếp Chồng Chung”   “ Tiếng Hát Mường Then” (của Út Trà Ôn ). Bạch Tuyết đã đi trình diễn học thêm ở Vương Quốc Anh  , Bulgaria … và là người độc nhất đậu bằng Tiến sĩ Nghệ Thuật nước nhà  về ca hát cải lương. Các nghệ sĩ khác , nguồn  gốc An Giang,  là ca sĩ Đức Tuấn , ca sĩ Phương Trinh, ca sĩ Đông Đào ( Phú Tân ) và các nhạc sĩ  Hòang Hiệp ( Chợ Mới ), Song Ngọc ( Long Xuyên )   

      …

 


 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 630231 visitors (2116210 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free