Phần II
Thời Đông Pháp, ít người đề cập tới
Đông Pháp - Indochine francaise hay Đông Dương thuộc Pháp, Liên Bang Đông Dương - Fédération indochinoise , từ năm 1947 đến hiệp định Giơ Neo- Geneva, Genève tháng tư năm 1954, là thành phần của Đế Quốc Thuộc Địa Pháp ở Đông Nam Á . Gồm liên bang 3 kỳ Việt Nam là Bắc Kỳ- Tonkin, Trung Kỳ - Annam và Nam Kỳ - Cochinchine cũng như Căm Bốt, nhận Pháp bảo hộ từ năm 1887, cộng thêm Lào năm 1893 và Quảng Châu Loan ( Kouang- Tchéou- Van , Guangzhouwan ) năm 1900. Sài Gòn là thủ đô Đông Pháp từ 1887 đến 1902 . Thủ đô Đông Pháp, năm 1902, được chuyễn từ Sài Gòn ra Hà Nội và đến năm 1939 cho đến 1945 là Đà Lạt , rồi chuyễn về lại Hà Nội từ năm 1945 đến năm1954. Khi Pháp thua trận ở Thế Chiến thứ II, Đông Pháp được chánh quyền Vichy Pháp cai trị với sự giám sát của quân đội Nhật mãi cho đến một thời kỳ ngắn ngũi hòan toàn do Nhật quản trị thực tế từ tháng 3 ( Nhật đảo chánh Pháp ) đến tháng 8 năm 1945. Bắt đầu từ tháng 5 năm 1941, Việt Minh ( Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội) nổi lên chống đối chánh quyền cai trị Pháp, khởi sự Cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất - The First Indochina War, theo sử gia Hoa Kỳ. Ở Sài Gòn, chánh quyền chống Cọng Việt Nam do quốc trưởng ( đã thóai vị bỏ ngôi vàng năm 1945 ) Bảo Đại ( Vĩnh Thụy ) lảnh đạo, được tuyên bố độc lập năm 1949. Tiếp theo Hiệp Định Giơ Neo năm 1954, Việt Minh nắm chánh quyền miền Bắc Việt Nam, và chánh quyền Bảo Đại vẫn thực tế cai trị miền Nam .
Tưởng cũng nên biết qua là năm 1862 Pháp nhận được từ thời vua Tự Đức hòa ước nhượng 3 cảng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ cho Pháp và nhượng Nam Kỳ , Pháp chánh thức xem là lảnh thổ ( thuộc địa ) Pháp năm 1864. Năm 1867, 3 tỉnh Châu Đốc, Hà Tiên và Vĩnh Long cũng trở thành lảnh thổ Pháp kiểm sóat. Năm 1863 , vua Căm Bốt Norodom đòi hỏi Pháp lập Bảo Hộ - Protectorat trên đất nước Căm Bốt. Năm 1867, Xiêm ( nay là Thái Lan ) nhận bỏ chủ quyền trên Căm Bốt và chánh thức công nhận Pháp Bảo hộ Căm Bốt năm 1863 hầu đổi lấy kiểm sóat các tỉnh Battambang và Siem Reap, trở thành lảnh thổ Thái Lan . Nhưng sau hòa ước biên giới năm 1906 giữa Pháp và Xiêm, Thái Lan hòan lại hai tỉnh này cho Căm Bốt .
Pháp đọat quyền kiểm sóat Bắc Kỳ sau khi thắng Trung Quốc ở Chiến Tranh Hoa- Trung Pháp các năm 1984- 85. Đông Pháp được thành lập năm 1887 từ ba kỳ , Bắc Kỳ , Trung Kỳ và Nam Kỳ( hợp lại thành nước Việt Nam ngày nay) và vương quốc Căm Bốt, Lào, được xáp nhập vào Đông Pháp sau Chiến Tranh Pháp -Xiêm năm 1983. Liên Bang Đông Pháp tồn tại cho đến năm 1954. Cả 4 xứ Bảo Hộ, trên danh nghĩa, Pháp giữ lại chánh quyền địa phương là các vua Việt Nam, vua Căm Bốt và vua Luang Prabang. Nhưng trong thực tế Pháp thu gọn mọi uy quyền vào tay Pháp; các vua chỉ là “ bù nhìn” . Tranh chấp lảnh thổ khi Pháp muốn mở rộng Đông Pháp, là nguồn gốc Chiến Tranh Pháp- Xiêm năm 1893. Năm 1893 , Chánh quyền Thuộc địa Đông Pháp lợi dụng tranh chấp biên giới, tiếp theo là hải chiến PakNam, để gây hấn. Tàu chiến Pháp xuất hiện ở Vọng Các -Bangkok và yêu cầu Xiêm nhượng các lảnh thổ Lào ở phía Đông sông Cửu Long. Vua Xiêm Chulalongkorn kêu gọi Anh Quốc, nhưng tổng trưởng Anh nói vua Xiêm nên tự điều đình lấy, cho nên buộc lòng vua Xiêm phải chấp nhận. Thành quả thái độ Anh Quốc là một thỏa thuận của Xiêm với Pháp, bảo đảm toàn vẹn lảnh thổ còn lại của Xiêm. Thay vào đó, Xiêm phải từ chối chủ quyền vùng Shan, nói tiếng Thái ở Đông Bắc Miến Điện cho Anh Quốc kiểm sóat và nhượng Lào cho Pháp.
Tuy nhiên , Pháp tiếp tục áp lực trên Xiêm và các năm 1906 - 1907 lại tạo dựng lên một khủng hỏang khác. Lần này, Xiêm đã phải nhượng cho Pháp bờ phía Tây sông Cửu Long đối diện Luang Prabang và quanh Champasak ở Nam Lào, cũng như miền Tây Căm Bốt. Pháp cũng chiếm giữ phần phía Đông tỉnh Chantaburi. Năm 1904, hầu đòi lại Chantaburi, Xiêm phải nhượng vùng Trat cho Đông Pháp. Trat được hòan lại cho Xiêm - Thái Lan ngày 23 tháng 3 năm 1907, đổi với nhiều vùng phía Đông sông Cửu Long như Battambang , Siam Nakhon và Sisophon. Vào thập niên 1930, Xiêm thảo luận với Pháp về việc hòan trả lại cho Xiêm những tỉnh Xiêm Pháp chiếm giữ. Năm 1938 , Chánh quyền
Mặt Trận Bình Dân Pháp ở Ba Lê đồng ý hòan lại Angkor Vat, Angkor Thom, Siem Reap, Siem Pang và các tỉnh liên hệ ( gần 13 tỉnh cả thảy ) cho Xiêm. Trong lúc đó, Xiêm chiếm cứ các vùng này, trước khi hòa ước ký kết. Hai chánh quyền Xiêm và Đông Pháp gửi người đến Đông Kinh- Tokyo Nhật ký kết hòa ước hoàn lại những tỉnh Xiêm đã mất.
Chiến tranh Pháp- Xiêm ( Thái Lan ) tái diễn các năm 1940 - 41. Vào Thế Chiến thứ II , Thái Lan lợi dụng cơ hội Pháp yếu kém , đòi lại các đấtđai Xiêm đã mất, gây nên cuộc chiến tranh Pháp - Xiêm, từ tháng 10 năm 1940 đến ngày 9 tháng 5 năm 1941. Quân lực Thái Lan chiến đấu khá giỏi trên đất liền, nhưng các mục tiêu Thái rất là giới hạn. Tháng giêng 1941, hải quân Pháp Vichy đánh bại thẳng thừng hải quân Thái ở Trận Ko Chang . Chiến tranh chấm dứt với sự can thiệp của Nhật tháng 5 năm 1941 và Pháp phải trả lại những lảnh thổ Xiêm Pháp đã chiếm giữ thêm.
Tháng 3 năm 1945 , Nhật đảo chánh Pháp, chiếm mọi uy quyền ở Đông Pháp. Tháng 4, Nhật làm áp lực Thái tử Lào, Hòang thân Savang Vatthana tuyên bố Lào độc lập, tung ra Chiến dịch Đông Pháp thứ II . Nhật nắm thực quyền ở Đông Dương và Đông Pháp, mãi cho đến tháng 8 năm 1945 khi Nhật đầu hàng Đồng Minh. Sau Thế Chiến thứ II, Pháp đòi hủy bỏ Hiệp Ước Pháp - Xiêm năm 1938, cố sức giữ vững uy quyền, nhưng đụng độ với các lực lượng Việt Minh liên kết cùng các đảng phái quốc gia Việt Nam. Hoa Kỳ thọat tiên ủng hộ Việt Minh chống Nhật. Tổng thống Roosevelt và tướng Stilwell, trong nhũng đàm luận tư, minh bạch nói rằng Pháp không thể tái lập uy quyền ở Đông Pháp ( nghĩa là Việt Nam ngày nay, Căm Bốt và Lào ) khi Thế Chiến chấm dứt . Tổng thống Roosevelt nói với Ngọai trưởng Hoa Kỳ Cordell Hull là sau gần 100 năm Pháp cai trị, Đông Pháp còn tệ hại hơn trước . Roosevelt còn hỏi Tưởng giới Thạch - Chiang Kai shek là có muốn lấy Đông Pháp không, được Tưởng Giới Thạch trả lời rằng không trong bất cứ trưòng hợp nào. Nhưng sau khi Nhật đầu hàng, Tưởng gửi 200 000 quân Tàu do tướng Lư Hán chỉ huy chiếm đóng miền Bắc Việt Nam phía trên vĩ tuyến thứ 16 để giải giáp quân đội Nhật. Tưởng đe dọa Pháp và thao tác xung đột giữa Pháp và Việt Minh, buộc Hồ Chí Minh và Pháp phải ký thỏa hiệp hòa bình. Tháng 2 năm 1946, Tưởng buộc Pháp phải trả lại mọi nhượng địa ở Trung Quốc và các ân huệ ngọai lảnh thổ của Pháp , đổi lại việc Tàu rút quân khỏi miền Bắc Việt Nam và để cho quân đội Pháp tái chiếm vùng này , khởi sự tháng 3 năm 1946. Sau khi thuyết phục vua Bảo Đại thóai vị , ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ Tịch Hồ Chí Minh ( HCM ) tuyên bố Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam độc lập. Nhưng trước cuối tháng 9, một lực lượng quân đội Anh và Pháp cùng quân đội Nhật bị bắt giữ, tái lập quyền Pháp cai trị Pháp ở miền Nam Việt Nam . C hiến tranh khốc liệt tiếp theo đó, được gọi là Chiến Tranh Đông Dương thứ Nhất. Năm 1950, ông Hồ lại tuyên bố độc lập trên lảnh thổ Việt Nam Dân chủ Cọng Hòa , được hai chánh quyền Cọng Sản là Trung Quốc và Nga Sô Viết công nhận . Chiến tranh tiếp diễn mãi cho đến tháng 5 năm 1954 , khi Việt Minh đánh bại quyết định lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ. Ngày 27 tháng 4 năm 1954, Hiệp Định Giơ Neo phân chia ra hai miền Nam Bắc ở vĩ tuyến 16, với điều lệ là phải tổ chức tổng tuyễn cữ tháng 7 năm 1956, để thống nhất đất nước. Hoa Kỳ và miền Nam Việt Nam không chịu ký hiệp định Giơ Neo này. Pháp rút lui, trao lại Miền Bắc cho Cọng Sản . Trong khi chế độ Bảo Đại nhờ sự ủng hộ của Hoa Kỳ , tiếp tục kiểm sóat miền Nam .
Phát triễn Sài Gòn thời Pháp thuộc
Như đã nói trên cảng Sài gòn đã được thiết lập từ năm 1862 ở vòng cung sông Sài Gòn có nhiều sông nhỏ và rạch, kinh lớn nhỏ chằng chịt ngang qua. Đây là mạng lưới sông rạch bao phủ châu thổ sông Cửu Long và giao thông đến Căm Bốt . Nay tàu trọng tải 30 000 tấn có thể cập bến cảng sông Sài Gòn , một ưu điểm quan trọng ít khi thấy ở một cảng sâu trong đất liền. Cảng này đã là một trung tâm thương mãi, chuyên chở hàng hóa và hành khách náo nhiệt. Báo chí Sài Gòn, năm 1909, cho biết trong tháng 9 đã có 95 tàu chở hàng ngọai quốc ( Tây - Pháp , Đức , Mỹ- Hoa Kỳ, Hồng Mao - Anh... ), số lượng hàng hóa nhập cảng là 85 476 tấn. Theo giáo sư Nguyễn Văn Trung ( Đi Tới - 2003 ), riêng thủy trình của Hỏa Luân Thuyền Công ty đã có tàu Sài Gòn đi Mỹ Tho; từ Mỹ Tho đi Cái Bè, Vĩnh Long, Sa Đéc, Cù Lao Gien, Châu Đốc, Long Xuyên, Trà Ôn, Sóc Trăng và trở về Mỹ Tho , Sài Gòn; ngòai vô số thủy trình khá như lên Biển Hồ, lên Nam Vang, lên Bassac, đường sông lớn đi lên Lào … Pháp đã cố gắng dặt mục tiêu phát triễn Hòn Ngọc Viễn Đông - Sài Gòn thành một cảng buôn bán sầm uất sánh ngang Singapore do Anh Quốcc thiết lập lúc đó . Năm 19037 Sài Gòn đã là một trong 6 cảng họat động sôi nổi nhất trong 6 cảng nổi tiếng của Đế Quốc Pháp . Nay, Sài Gòn là một cảng sông chuyên chở hàng hóa mỗi năm 13 triệu tấn .
Năm 1936, Pháp khai thông đường xe lữa Xuyên Đông Pháp - Trans-Indochinois rail way nối Hà Nội- Sài Gòn Hà tầng cơ sở còn được cải thiện đẽ đễ du hành từ Pháp đến Đông Dương. Từ năm 1939, tàu đi từ Marseille ( cảng miền Nam nước Pháp ) chỉ mất chưa đầy 1 tháng và chỉ mất 5 ngày đi máy bay từ Paris đến Sài Gòn. Cáp điện tín- telegraph cables ngầm được thiết lập năm 1921. Kiều dân Pháp tạo thêm ảnh hưởng ở Sài Gòn bằng những kiến trúc cột mốc - landmark . Tỉ như Nhà Thờ Đức Bà- Cathedrale Notre Dame xây cất ngày 7 tháng 10 năm 1877 và hòan tất ngày 11 tháng 4 năm 1880, theo đồ bản họa kiểu của kỷ sư Pháp Bourard. Ngay tại trung tâm Thành Phố, trên đường Hàn Thuyên, quận 3, đối diện đường Động Khởi, gần Tòa Bưu Điện Sài Gòn. Hình như tổn phí là 2.5 triệu phật lăng - francs đương thời. Hai ngày 7 và 8 tháng 12 năm 1959, Tòa Thánh Vatican công nhận là đây là Nhà Thờ Lớn Sài Gòn thờ Đức Bà. Nhà Thờ lớn cũng là một công thự tôn giáo nguy nga, lọai kiến trúc Tân La Mã - Neo Romane có 2 tòa tháp cao 40m có mũi tên kim lọai trên đỉnh. Tòa Đô Chánh - City Hall, Hotel de Ville nay là Tòa Hội đồng Nhân Dân Thành Phố, sơn phết màu kem và màu vàng đúng kiểu cổ dinh thự thời Thuộc địa , đèn thắp sáng trưng ban đêm, không được phép thăm viếng, nhưng trước mặt là tượng Bác Hồ rất phổ thông để chụp hình . Viện Bảo tàng lịch sử Việt Nam - Museum of Vietnamese History, Musée de l’histoire du Việt Nam ở số 2 đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, phường Bến Nghé, quận 1, TP Sài Gòn. Viện Bảo tàng xây cất năm 1929, mang tên là viện Bảo Tàng Musée Blanchard de la Brosse , cho đến năm 1956 mới đổi tên Trong thời gian này, viện trưng bày nhiều triễn lãm nghệ thuật Á Châu. Năm 1956, viện trở thành viện Bảo Tàng Quốc Gia Sài Gòn. Sau 1975 , sau một lọat trùng tu mới có tên là Viện Bảo tàng Lịch sử Việt Nam . Đặc điểm là Viện chứa trên 17 000 cổ vật quí hiếm và trưng bày nhiều công trình nhiều giai đọan lịch sử nước nhà, từ thời cổ đại cách đây 300 000 năm đến năm 1930 lúc đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời, và của nhiều nền văn hóa , văn minh thế giới khác nhau. Dinh Thống nhất - Reunification Palace, Palais de Réunification ở số 106 đường Nguyễn Du, quận 1. Được xây cất năm 1865 và gọi là Dinh Norodom và sau đó là Dinh Phủ Tòan Quyền Đông Pháp . Tổng thống miền Nam Ngô Đình Diệm và gia đình ông bà Nhu sống ở dinh Norodom cho đến năm 1954 . Dinh bị một sĩ quan không quân ném bom làm hư hỏng nặng nề, tháng 2 năm 1962. Tổng Thống
Diệm bắt buộc phá hủy phần còn lại và sai kiến trúc sư Ngô Viết Thụ họa kiểu xây dựng một dinh thự mới, đổi thành Dinh Độc Lập -Independance Palace, Palais de l’ Independance. Dinh Độc Lập rộng 4 500 m2, trong một khuôn viên 120 000 m2. Dinh thự gồm một tầng dưới đất , ba lầu, hai tầng gác lững- mezzanines , một sân thượng -terrace, terrasse, một sân chơi ở tầng trên . Dinh có 100 phòng và mỗi phòng trang trí, theo đúng chức năng mình Ngòai ra còn có 2 phòng triễn lãm, một nhà khách 33 phòngđể đón mời quan khách và nhiều cơ sở để tiêu khiển giải trí, như sân đánh cầu vượt - tennis và nhiều nhà sàn. Ngày 30 tháng 5 năm 1975, xe tăng quân đội Bắc Việt phá cửa sắt xông vào chiếm dinh. Tổng thống Dương Văn Minh cùng 45 nhân viên nội các ông đầu hàng, không chút nào chống cự. Sau giải phóng, dinh là trụ sở Ủy Ban Quân quản TP HCM . Những hội họp chánh trị về thống nhất đất nước xảy ra ở dinh , cho nên dinh đổi tên thành Dinh Thống Nhất . Ngày nay, dinh Thống Nhất là một địa điểm du lịch hút dẫn, không những cho dân Việt mà còn cho ngọai quốc nữa.
…
( Irvine, Nam Ca Li - Hoa Kỳ ngày 10 tháng 9 năm 2014 )
|