.
  Phát triển Thanh Hóa P3
 
14/9/2014


Phần 3

 

    Phát triễn công Nghệ Thanh Hóa

 

   Năm 1991 , công nghiệp chiếm  10.5 % GDP ( Nếu cả xây cất là 19.5 %) . Năm 2000 tỉ lệ này rằng lên  21. 0% ( nếu cả  xây cất là 26.9% ). Mức tăng công nghệ thời gian 1991- 2000 là 13 %.  Mức tăng  công nghiệp và xây cất  trung bình sẽ là 21.4 %  thời  gian 2011- 2015  và thật sự năm  2013- 14 đã đạt  21.5% .  Hy vọng sẽ duy trì  mỗi năm  trung bình là 21.6%  cho thời gian 2016- 2020   Đến năm 2020, trên căn bản Thanh Hóa sẽ trở thành  một tỉnh công nghệ với cơ cấu cận đại .

 

   Các công nghệ chánh

Ngòai công nghệ điện ( nhiêt điện , thủy điện …) và nước thải, nước sạch… đã kể trên , đáng nêu ra nữa là: * công nghệ lọc dầu Nghi Sơn; giai đọan 1  là dung lượng 10 triệu  tấn / năm đã họat động năm 2012 - 2013( ? ), giai đọan 2   cũng có dung lượng   10 triệu tấn /năm . Phức tạp lọc dầu Nghi Sơn  còn làm các nhà máy  khác như  chế tạo polypropylene , tơ sợi tổng hợp, plastics, phân bón tổng hợp và nhiều sản phẩm khác   *  Công nghệ xi măng cố đạt  vào năm 2015 sản xuất 18 - 20 triệu tấn xi măng một năm ; thực hiện mau xong nhà máy  xi măng thứ 2 ở Nghi Sơn, Bỉm Sơn, Thành Công , xây cất  nhà máy xi măng  Thanh Sơn dung lượng 1.4 triêu tấn /năm . Tưởng cũng nhắc lại  là 2 nhà máy Bỉm Sơn  1,2 triệu tấn/ năm  và Nghi Sơn 2.3 triệu tấn/ năm , năm 2000 hai cơ sở này  chiếm 87.5%  tổng công xuất lò quay và 68.3 % xi măng vùng Bắc Trung Bộ .   Nhà máy Bỉm Sơn xây dựng từ năm 1980 theo kỷ phương pháp Kỷ Thuật Ướt, trình độ lạc hậu  đã  được đầu tư chuyễn sang  Kỷ Thuật Khô bằng lò quay liên doanh với  2 công ty Nhật.    * Xây dựng cơ sở các nhà máy sản xuất vật liệu xây cất ở vùng Kinh tế Nghi Sơn  và các vùng công nghệ như nhà máy bê tông nhựa đường - asphalt concrete, bê tông đúc sẳn- recast concrete , bê tông mới - fresh concrete , sản xuất  mái lợp đặc thù Thanh Hóa là ngói nung vảy cá , ngói âm dương…  các dây chuyềnn lò tuynen   sản xuất gạch nung , đá chẻ , nhà máy dây chuyền  tấm lợp   xi măng - fibro cement  , nhà máy sản xuất đá ốp lát,   đá xây dựng …*  Gia tốc xây dựng nhà máy thép POMIDO dụn lượng 650 000 tấn /năm  , nhà máy thép Nghi Sơn dung lượng 759 000 t/năm và cố thu hút thêm đầu tư chế tạo thép tấm - sheet steel, thép khuôn - shape steel, thép cao phẩm  ở vùng kinh tế Nghi Sơn dung lượng 6 triệu tấn/ năm,  thép đặc biệt cho ngành công nghệ quốc phòng . *  Cải thiện hay  nâng cấp  các ngành công nghệ cơ khí, lắp ráp các thiệt bị nặng , thiết bị  cho công nghệ chuyên chở và vật liệu xây cất  và chế biến thực phẩm , thiết bị điện - bộ phận điện tử kỷ thuật thông tin, ráp ô tô , sản xuất đầu máy  xe lữa, toa xe lửa,  thiết bị đường rầy và phụ tung.. * Đã  hòan tất năm 2010, giai đọan 1 xưởng đóng tàu Nghi Sơn,  khả năng 50 000 DWT , đầu tư  năm 2015 cho giai đọan 2 đóng tàu   50 000 DQWT và sửa chửa tàu  trên  100 000 DWT. * Nới rộng  khả năng nhà máy chế biến cao su ở Xuân Thành , Cẩm Thủy , nhà máy chế biến rau dưa  p ở Thạch Thành,  các nhà máy chế biến rau dưa mới , các nhà máy chế biến thực phẩm  ở các công viên công  nghệ  ở Thạch Quang ( Thạch Thành ),  và ở các huyện ven biển, sáng kiến , cải thiện khả năng sản xuất các  nhà máy thủy sản ở Hòang Trường, Lệ Môn, Lạch Bạng, Hội Lạch, Lạch Trường ; xây cất  chế biến tập trung  thực phẩm gia súc ở các huyện Nông Cống, Triệu Sơn, Thiệu Hóa, Ngọc Lạc …  Cố công phát triễn  những công nghệ khác như khai thác các quặng mỏ , các hàng hóa tiêu thụ xuất khẩu được, may mặc, bao bì, các giày dép da,  du lịch v.v….  Dần dần phát triễn công nghệ cao kỷ .  Phục hồi  hay phát triễn các làng thủ công như đan lát, thêu dệt , tơ lụa,  gấm đọan,  tre mây,  kim hòan châu báu, đá quý , nghệ thuật tinh vi.

 

   Các vùng công nghệ

   Trên địa bàn tỉnh,  năm 1999  Thanh Hóa đã  hình thành  các  cụm khu công nghiệp sau Đây :  Khu công nghiệp tập trung Lệ Môn thiết lập năm 1998, diện tích 62.6 ha, chạy dọc theo sông Mã, từ Hàm Rồng qua Lệ Môn đến Hới, gắn T P  Thanh Hóa với thị xã Sầm Sơn và đường số 8; Khu công nghiệp tập trung Bỉm Sơn nằm ở phía Bắc tỉnh, có điều kiện giao thông tiện lợi như quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, đường sông Bưởi  - Tam Điệp; Cụm  công nghiệp Thạch Thành  với các ngành sản xuất mía đường, bánh kẹo, cồn, rượu, sản xuất thức ăn gia súc; Cụm công nghiệp Thọ Xuân ở phía Tây tỉnh với hạt nhân là thị trấn Lam Sơn  và các vệ tinh là thị trấn Sao Vàng, Bái Thượng;   Cụm công nghiệp  Nghi Sơn ( Tĩnh Gia ) về pía Nam tỉnh, giáp nghệ An , các ngành công nghiệp chủ đạo ở đây  là vật  liệu xây dựng , dịch vụ cảng biển, du lịch, chế biến hải sản, cơ khí  đóng - sửa chửa  tàu thuyền;  Cụm công nghiệp Nghi Sơn cùng với Hoàng Mai của Nghệ An tạo ra khu vực tập trung công nghiệp Nam Thanh - Bắc Nghệ và dự trù những năm  2010- 2015 sẽ là nơi tập trung sản xuất xi măng lớn và một số ngành khác của cả Vùng Bắc Trung Bộ .

 Từ năm 2000 đến 2015 tỉnh tiếp tục  đầu tư,  nới rộng,  cận đại hóa cơ cấu dần dần  các công viên công nghệ đã có sẳn; hình thành một  số công viên công nghệ mới  ở TP Thanh Hóa,  thị trấn Bỉm Sơn  và tại các huyện Ngọc  Lạc, Hậu Lộc, Quảng Xương , Hoằng Hóa, Như Xuân và Thạch Thành . Cố phát triễn những cụm công nghệ  cho các làng nhỏ hay trung  bình ở các huyện và thị trấn tỉnh  và đạt cho được vào năm 2020,  mọi làng xã và khỏang 50 % các làng xã vùng núi có  các cụm công nghệ .  

    Tuy có tiến bộ , nhìn chung chung , mặt hàng chủ yếu xuất   khẩu của công nghiệp Thanh Hóa là xi măng, kém đa dạng như nông  nghiệp đã xuất khẩu gạo, cà phê, tôm đông lạnh  , đậu phụng - lạc .  Năm   2000 , mức xuất khẩu  tỉnh Thanh Hóa  chưa đến 20 triệu đô la Mỹ. Năm 2015,  tỉnh nhà cố đạt  800- 850  triệu đô la Mỹ về xuất khẩu. và nhờ tỉ lệ tăng gia sẽ  là 19 - 20 % mỗi năm, năm 2020 , hy vọng xuất khẩu sẽ đạt 2 tỉ  đô la năm.  So sánh với Bình Dương - Thủ Dầu Một,  diện tích chỉ bằng  1 phần 5 , dân số  phân nữa Thanh Hóa;  nhưng 6 tháng đầu năm 2012  Bình Dương đã xuất khẩu trên 5 tỉ đô la thì thấy chênh lệch  phát triễn quá cách xa nhau,  dù rằng ở thập niên 1970 cả hai tỉnh đều bị chiến tranh tàn phá nặng nề và nay cả hai tỉnh đã tái thiết, hàn gắn  hầu hết các dấu vết bom đạn …

 

         Phát triễn dịch vụ

 

 

Thanh Hóa  có thể phát triễn thương mãi , dịch vụ,  du lịch mạnh mẽ hơn nhiều.  Tỉnh Thanh Hóa là nơi giao lưu, tụ điểm  hàng hóa chuyên chở Nam - Bắc và di chuyễn hàng hóa giữa  các tỉnh Tây Bắc và các tỉnh miền Bắc Lào Quốc qua cảng Nghi Sơn và các vùng núi non tỉnh nhà. Như vậy cần đầu tư thêm xây dựng  một  trung tâm thương mãi tân tiến  ở TP Thanh Hóa,  Vùng Kinh tế Nghi Sơn  với những khu chế xuất miễn thuế,  thực hiện khu kinh tế cửa khẩu Na Mèo,    để hàng hóa chuyễn vận thương mãi dễ dàng hơn giữa Thanh Hóa  và Lào Quốc , đặc biệt tỉnh Bắc Lào  và các vùng chung quanh, xây cất một trung tâm thương mãi ở Bỉm Sơn  và Ngọc Lạc  và ở vài trị trấn khác.  Du lịch  ngày nay là một thừa tố phát triễn kinh tế xã hội quan trọng . Thanh Hóa có nhiều tiềm năng phát triễn du lịch với các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử hào hùng,một phần nào đã nêu lên ở trên, gắn với quá trình dựng nước và giữ nước của  dân tộc Việt Nam.  Di tích  lịch sử có kinh thành cổ  Lam kinh ( Thọ Xuân ), thành nhà Hồ ( Vĩnh Lộc ), chiến khu Ngọc Trạo ( Thạch Thành ), chiến khu Ba Đình ( Nga Sơn ), khu Nam Ngạn - Hàm Rồng … Đền thờ  các vị anh hùng dân tộc  có: đền thờ Bà Triệu ( Hậu Lộc ), đền thờ Lê Hòan ( Thọ Xuân ), đền thờ Dương Đình Nghệ, Lê Văn Hưu ,(Đông Sơn), đền thờ Trần Khát Chân và các đền chùa nổi tiếng khác là đền thờ thần Độc Cước, đền Cô Tiên, chùa Thanh,chùa Thanh Hà. Tài nguyên du lịch tự nhiên  có bải biển Sầm Sơn, vườn quốc gia Bến Én, các hang động lừng danh như động Bích Đào, động Từ Thức, động Tiên Sơn , bải chim Tiến Nông, hang cá thần Cầm Lương, bán đảo Nghi Sơn, hồ sông Mực.. Về di sản văn hóa  các di tích Núi Đọ tiêu biểu cho sơ kỳ đồ đá cũ, di chỉ nền văn hóa Hòa Bình cho thời kỳ đồ đá mới,  di chỉ Hoa Lộc tiêu biểu cho sơ kỳ  thời đại đồng thau , và nhiều di chỉ  của nền văn hóa Đông Sơn( như trống đồng  Đông Sơn)  rực rỡ đặc trưng cho thời đại đồ đồng và sơ kỳ thời đại đồ sắt Việt Nam  và kho tàng văn hóa  nhân văn quí báu là hò sông Mã, hát trống quân, múa Đông Anh, Xuân Pá Pồn Pông … Từ năm 2010, tỉnh  phát triễn  du lịch sinh thái  Vườn Quốc Gia  Rừng Nguyên thủy Cúc Phương, nhưng chưa mấy phát triễn vùng lảnh hải tỉnh nhà rộng lớn, diện tích 17 000 km2,  bờ biển 102 km chạy dài  từ của Đáy( Ninh Bình)  đến Đông Hồi ( Tĩnh Gia ).  Đáy biển vùng gần bờ là dải cát thỏai, bằng phẳng  có một số  vụng cảnh quan đẹp đẻ như vụng Gầm ở Sầm Sơn, vụng Quyền, vụng Thủi ở Tĩnh Gia các đảo (Hòn Nẹ, Hòn Mê, đảo và các tiểu đảo Nghi Sơn), điều kiện thuận lợi cho sự cư trú các lòai hải sản quý hiếm nhiều giá trị kinh tế như cá chim, cá thu,  cá nụ,  cá đú , tôm he , tôm hùm, mực … Thanh Hóa có 8000 ha bải triều nuôi trồng được nhiều lọai thủy sản  nuớc lợ và khỏang 10 000 ha  nước mặn nuôi được cá sòng, cá cam, trai ngọc, tôm hùm  phân bố chủ yếu ở vùng đảo Hòn Mê, Biện Sơn.  Đáng tiếc là bải biển Sầm Sơn bải biển nghĩ mát nổi tiếng thời Pháp thuộc, lại phát triễn thua  kém xa Nha Trang. Dù Sầm Sơn  có hai  đảo lớn: Hòn Nẹ, như con  cọp lớn đang ngồi phía Đông Bắc và  Hòn Mê, con ngựa khổng lồ trên tấm thảm biển xanh dương, đang mải miết rong ruổi giữa trùng dương và trong đất liền  nhiều  núi đá ngọan mục như  núi Trường Lệ, đền Độc Cước dựng trên hòn Cổ Giải, hòn Trống Mái ( Tự Lực Văn Đòan đã tức cảnh viết một chuyện tình đôi trẻ giai cấp bi thảm ), hòn Trống Mái là một cảnh kỳ thú  nhất Sầm Sơn , giống như đôi chim khổng lồ đang chụm đầu, nghiêng mỏ giừa trời xanh nước biếc  ), hòn Đầu Voi   nghe kể chuyện Kho Vàng Sầm Sơn,  rồi đến  việc tìm thấy thuyền của cải của Nguyễn hửu Chỉnh chạy trốn từ  Bắc Hà vào Phú Xuân bị đánh đắm ở đây. Tỉnh nhà dự trù tiếp đón năm 2015, ba triệu du khách, trong đó 900 000 du khách ngọai quốc  và năm 2020 , 5 triệu du khách   , 40 % là du khách ngọai quốc      

 

     Không quên cận đại hóa nông nghiệp

    Năm 2000, nông nghiệp chiếm 21 % GDP  ở tiểu vùng thành thị , 42.5 % ở tiểu vùng đồng bằng, 50.2 % ở tiểu vùng ven biển và 66.1 % ở tiểu vùng  trung du  miền núi. Thanh Hóa  đã giảm nông lâm ngư xuống từ 31.6% GDP  năm  2005 , chỉ còn 15.5 % dự trừ năm 2015 và xuống 10.1 % năm 2020 .  Cố ổn định diện tích cây lương thực ở  mức 270 - 280 000 ha vào năm 2020 , trong đó diện tích trồng lúa là 220 -230 000 ha , 50 000 ha  diện tích trồng bắp ( ngô ) .  Tổng sản  lựợng thực phẩm,  năm 2020  sẽ là 1.7  triệu tấn,  hầu bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu gạo cao phẩm . Năm 1999,  tổng sản lượng lương thực  Thanh Hóa đạt 1.26 triệu tấn . Sản lượng thóc ( lúa ) chiếm 84.4 tổng số . Vùng thâm canh lúa  Thanh Hóa tập trung ở các huyện Thọ Xuân, Thiệu Yên, Triệu Sơn, Đông Sơn, Hà Trung, Hoằng Hóa, Quảng Xương và Nông Cống. Năng xuất lúa cả năm Thanh Hóa  năm 1995 đạt 3.30 t/ ha ; năm  1999 tăng lên 4.2 t/ năm . Nhưng nay có thể  lên đến - 6- 7 t/ha  hay cao hơn nữa ở các vùng thâm canh. Năng xuất bắp năm 1999 là 2.72 t/ha còn quá thấp kém,  phải cố tăng lên 8-9 t/ha. Năm 2000,  Thanh Hóa chỉ  trồng được 670 ha cao su, sản lượng  700 tấn, phân bố chủ yếu ở các huyẹn  Như Xuân, Ngọc Lạc, Thạch Thành, Cẩm Thủy, Triệu Yên, Thọ Xuân, Bá Thước . Năm 2015,  diện tích trồng cao su tỉnh nhà sẽ lên đến 25 000 ha  và có thể  tăng thêm diện tích cũng như tăng năng xuất mũ cạo nhiều hơn nữa  đến 2020,  với các giống cao năng chịu lạnh  mới mẽ thế giới.  Năm  2000 Thanh Hóa trồng được 29 700 ha mía đường , ba lần hơn diện tích mía năm 1995. Năng xuất bình quân đạt 55t/ha cũng là quá thấp kém so mức trung bình75 - 100t/ha trên thế giới. Cho nên mục tiêu ổn định diện tích mía  Thanh Hóa ở 26- 28 000 ha năm 2020 là  vừa phải,  đủ cung cấp  nguyên liệu cho hai nhà máy đường Lam Sơn và Thạch Thành.  Hình như diện tích cà phê tỉnh dự trù cho năm 2020 là  22 - 23 000ha,   cần tìm cách mở rộng thêm trên các lọai đất khác ngòai đất đỏ basalt.  Nên lưu ý   đến hai cây công nghệ thích  hợp Thanh Hóa là  cây chè ( trà) diện tích năm 2000 đã là 1683 ha ở các huyện  Như Xuân, Nông Cống, Triệu Sơn, Thường Xuân và cây cói  làm mành mành thủ công, diện tích  có năm đã trên 3600 ha,  sản lượng 25 000 tấn,  lớn nhất là ở huyện Nga Sơn. Trên phương diện cây hàng niên, nên chú trọng đến cây  đậu phụng - lạc  năm 1999 đã có diện tích   14 000 ha  ( năm 2020 dự trù tăng lên 22-23 000 ha ?) chú trọng đến đậu phụng mùa xuân chiếm 80 % tổng diện tích. Cũng như phát triễn ngành trồng rau dưa công nghệ kỷ thuật mới, song song với chăn nuôi bò sửa, dê sửa ở các vòng đai  xanh - trắng TP và các đô thị mới cũ,  cố đạt 3000 - 3500 ha,  liên kết cùng công nghệ biến chế .

 ...

  

         (Irvine,  Nam Ca Li - Hoa Kỳ, ngày 30 tháng 8 năm 2014 )

 

 


 
 
  Số lượt người đọc kể từ 1 July 2013: 693403 visitors (2230826 hits) on this page!  
 
This website was created for free with Own-Free-Website.com. Would you also like to have your own website?
Sign up for free