27/3/2014
Cố gắng hiểu biết thêm chút ít về kinh tế : GDP và những chỉ dẫn lảnh đạo kinh tế CPI …. Coi chừng :
Các con số kinh tế đã trở thành một chỉ dẫn định nghĩa thế giới. Cá nhân, các tổ chức và chánh phủ định giá cách nào họ đã họat động, căn cứ trên các con số này nói với họ. Các nhà kinh tế học và các nhà phân tích lỏng lẻo dựa vào ( các con số ) thống kê đo lường GDP, thất nghiệp , lạm phát và thiếu thốn thương mãi ( siêu, mất cân bằng xuất nhập khẩu ) như thể là “ những chỉ dẫn lảnh đạo – leading indicators” và tán thành tin tưởng là những con số này ảnh hưởng chánh xác đến thực tế và cung cấp những cái nhìn bên trong độc đáo về tình trạng sức khỏe của một nền kinh tế. Nhập chung lại, các chỉ dẫn lảnh đạo này tạo ra một bản đồ dữ liệu giúp dân gian điều khiển đời sống mình. Tuy nhiên, đồ bản này đã trình bày những dấu hiệu lảo hóa rồi . Hiểu rỏ đồ bản từ đâu tới có cơ giải thích tại sao chúng lại ít đáng tin cậy hơn trước nhiều.
Không một chỉ dẫn lảnh đạo ngày nay nào, đã có mặt cách đây một thế kỷ. Chúng đã được sáng tạo ra để đo lường các nền kinh tế các quốc gia –sứ sở công nghệ giữa thế kỷ thứ 20 . Vào thời gian này của chúng ,chúng đã hành động lỗi lạc, sáng chói. Thế nhưng thế kỷ thứ 21đã tỏ ra thách thức hơn để đo lường nó . Các quốc gia – xứ sở công njhệ đã nhường chỗ cho các nền kinh tế đã mở mang – developed economies giàu có dịch vụ - services và các nền kinh tế đang trổi dậy xuất khẩu hàng hóa các công ty đa quốc gia – multinational companies làm ra. Các thống kê thế kỷ 20 không được họa kiểu cho những thực tế này, và dù có các cố gắng chuyên cần của các nhà thống kê, chúng không đuổi kịp nữa.
Những thay đổi này đã tạo ra một cám dỗ cố tìm những công thức mới, các chỉ dẫn tốt đẹp hơn và các thống kê mới. Và tìm kiếm này cũng như lùng kiếm các kỷ thuật mới đã xảy ra, chắc chắn là đáng kể lắm. Nhưng tin tưởng rằng một vài con số đơn giản hay trung bình căn bản có thể chụp bắt ngày nay ,những hệ thống đa diện quốc gia và kinh tế tòan cầu là một huyền thọai, cần gạt bỏ đi .Thay vì cố tìm những con số đơn giản thay thế những con số đơn giản cũ, các nhà kinh tế học nên bòn rút sức mạnh của thời đại thông tin, hầu hình dung những câu cần trả lời và ôm chồm những phương cách mới giải đáp chúng.
Gọp chung lại đi
Vua của những chỉ dẫn kinh tế hiện đại, lẽ dĩ nhiên, là tổng sản phẩm quốc gia ( trong nước, nội địa )GDP - gross domestic product . Thống kê này đã trợ thành quá quan trọng cho kinh tế học , cho nên đáng ngạc nhiên khám phá rằng nó chỉ mới sáng chế ra gần đây thôi. Đồng thời nó cũng cho biết là những nhà sáng tạo nó cũng hiểu rỏ điều gì nó bao gồm ( hay không bao gồm ) tốt đẹp hơn hảng hiểu biết về nó ngày nay của đa số dân gian.
GDP đo lường hàng hóa - goods và dịch vụ- services một quốc gia duy nhất sản xuất ra. Các chánh phủ chấp thuận những chánh sách cố tối đa hóa GDP, bằng cách tăng cường sản lượng quốc gia. Thật thế , GDP đã hiễn nhiên trở thành ủy nhiệm thành công hay thất bại của quốc gia. Nó có uy vũ quyết định các tuyễn cử, lật nhào các chánh phủ và tung ra các phong trào quần chúng. Một GDP tăng trưởng đồng lượt với các mong đợi , có thể làm uy tín quốc gia mạnh hơn lên, nghĩa là thêm cường lực và uy lực . Mặt khác, GDP co lại , không đáp ứng mong đợi, có thể gieo tai hại . Thế nhưng, cách đây 100 năm, ý niệm GDP chưa xuất hiện; lịch sử đã trải bày không có nó. Chẳng hạn, Hoa Kỳ đã thắng trận trở thành nước độc lập, đánh nhau ở một cuộc nội chiến và xâm chiếm cả một lục địa mà không có biện pháp nào đo lường lợi tức quốc gia cả.
Các nguồn gốc GDP tìm thấy vào thập niên 1930, khi các nhà kinh tế học, các nhà làm chánh sách ở Hoa Kỳ và ở Vương Quốc Anh, chiến đấu để hiểu rỏ và đáp ứng thời kỳ Đại Khủng hỏang - Great Depression ( 1929 - 1933 ) . Thế chiến thứ II bắt đầu làm cô đặc đo lường theo hệ thống mét, khi các Đồng Minh cố gắng kiểm sóat ảnh hưởng của chiến tranh trên các nền kinh tế quốc gia mình. Không có gì đáng kinh khủng ngạc nhiên là các nhà kinh tế học, các nhà làm chánh sách ưa chuộng hơn, một kỷ thuật thống kê giúp Hoa Kỳ ra khỏi một khủng hoảng và thắng một cuộc thế chiến. Nhưng ngay chính cả các nhà kinh tế học sáng tạo ra hệ thống mét này lại có thể tưởng tượng nổi là GDP sẽ trở thành quá quan trọng cho mọi quốc gia xứ sở trên thế giới, chỉ trong vòng vài thập niên ngắn ngủi.
Ở Hoa Kỳ, mọi danh tiếng phát triễn ý niệm GDP thảy đều là công của nhà kinh tế học Hoa Kỳ gốc Nga Simon Kuznets , sau đó đọat giải Nobel nhờ công trình ông làm ra các kế tóan quốc gia, ghi chép tòan diện lợi tức một quốc gia, chi tiêu tài chánh và tích sản. Công trình Kuznets cung cấp nền tảng trên đó các nhà kinh tế học và thống kê học sau này thiết lập tổng sản phẩm nội địa quốc gia ( GNP ) - Gross national Product và thừa kế nó là GDP . GDP trở thành một số thống kê được kể ra rộng rải hơn nhiều . Khác biệt giữa hai hệ thống mét thập phân này không lấy gì làm to lớn, GDP gồm tất cả mọi sản xuất trong một nước, không kể đến các nguồn gốc quốc gia các cá nhân hay các công ty tạo ra chúng. Mặt khác GNP bao gồm sản xuất một công dân hay một công ty nội địa bất kể ở đâu, ở vị trí nào đi nữa.
Kutznets là một kể đề xướng kinh tế học như thể một khoa học căn cứ trên các công thức và được thử nghiệm nghiêm túc. Ông được nhà kinh tế học Anh là John Maynard gia nhập và hổ trợ trên cố gắng này phía bên kia bờ đại dương. Dù rằng đã có nhiều cố gắng lẽ tẽ đo lường lợi tức quốc gia, kể từ thế kỷ thứ 17, không một ai đã dùng các phương pháp nghiêm túc chánh thức hóa đo lường nó, mãi cho đến khi Kuznets và các đồng nghiệp ở Cục Quốc gia Khảo cứu Kinh tế - National Bureau of Economic Research , một tổ chức không vụ lợi ở thị trấn Cambridge bang Massachusetts khởi sự làm như vậy cuối các thập niên 1920 và 1930. Chúng đã đượccác nhà làm chánh sách thôi thúc , đang cần hình dung cái gì đang xảy ra trong thời kỳ kinh tế khủng hỏang và xem thử bất cứ các chánh sách New Deal ( thời Tổng thống Roosevelt ) nào đã làm tốt . Vì không có bất cứ một cảm giác đưng chuẩn nào về cái gì quốc gia đang sản xuất , không thể nào biết được là những biện pháp New Deal nào đầy sáng kiến và gây tranh cải của chánh phủ , thật sự đã giúp tăng sản lượng và công ăn việc làm cả .
Khi cố tâm thiết lập một đường chuẩn như thế, Kutznets và vài người khác làm nhiều quyết định quan trọng . Khẩn thiết nhất là bỏ đi công trình nột địa- nấu nướng, giặt sạch , nuôi con trẻ v.v...à - vì rất khó lòng giao cho các việc này những giá trị thị trường. Hậu quả là cả GNP và GDP cuối cùng ra, quên bẳng một vương quốc đồ sộ của họat động kinh tế. Nhưng cái gì họ đã đo lường được, hổ trợ thuận tiện những lý thuyết Keynes và vài người khác đề cao: đó là các chánh phủ phải chi tiêu nhiều hơn nữa vào những thời kỳ bị cưởng ép , hầu kích thích yêu cầu.
Thế chiến thứ II đã cho ai đề nghị các hệ thống mét mới, một cơ hội mới chứng minh giá trị. Các chức quyền Hoa Kỳ và Anh Quốc cần biết là bao nhiêu sản xuất nội địa có thể góp phần vào nổ lực chiến tranh mà không thiệt hại đến tình hình các hàng hóa căn bản. GNP cung cấp một phương cách tính toán chính xác bao nhiêu chánh phủ có thể chi tiêu và cách nào nó có thể tăng thuế chi tiêu cho Quốc phòng, mà không khởi động lạm phát nguy hiểm hay làm xói mòn nền kinh tế nội địa. Có thể hiểu được rằng Đồng Minh thắng trận cuối cùng ở chiến tranh, làm lu mờ đi cuộc thu phục nền kinh tế gần như cùng lúc. Nhưng theo điều kiện cách nào dân gian nhìn vào hiện tại và tương lai, và cách nào họ qui định uy lực và thành công, sáng chế ra những chỉ dẫn then chốt này, cũng quan trọng không mấy kém .
Những năm sau chiến tranh, khi cuộc chiến đấu lý tưởng của Hoa Thịnh Đốn với chủ nghĩa cộng sản sôi bỏng lên và khi Chiến Tranh Lạnh gạt qua một bên tranh chấp quân sự trực tiếp , các nhà kinh tế học và làm chánh sách thêu dệt ra các chỉ dẫn, tỉ như GDP, vào mọi xó xỉnh - kẻ hở đời sống kinh tế và văn hóa dân gian. Tiến trình này xảy ra không chỉ ở Hoa Kỳ và Vương Quốc Anh mà khắp cả thế giới , nhờ các nhịp đẩy tới tòan cầu của Liên Hiệp Quốc và tính chất kết nạp của chủ nghĩa tư bản.
Tuy nhiên từ thuở ban sơ, các kế tóan quốc gia, GNP và GDP đều giới hạn về những gì chúng đo lường. Chúng được vẽ ra để định giá thịnh vượng, nhưng với hiểu biết là đời sống đa phương đã bị bỏ sót và không được định giá hòan tòan. Những hệ thống mét này không những quên bẳng đi công trình nội địa và các sở thích lúc nhàn rỗi: GDP và các tiền nhiệm cũng bị thu gọn quá đáng, vì chúng tính luôn cả mọi sản xuất và tiêu thụ như là một tích sản giá thực, không lưu ý gì đến tính chất nó.
Cho nên như Alan Greenspan, một tay quán quân sớm sủa của nhữngchỉ dẫn thời hậu chiến nhận xét về thập niên 1990 , khi ông còn là chủ tỊch Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ ( thống đốc ngân hàng quốc gia Hoa Kỳ ) , nếu các cư dân miền Nam Hoa Kỳ mua nhiều máy điều hòa không khí để bớt nóng nực quá độ mùa hè , thì sẽ được trình bày như thể một dương tính cho GDP ( giả thiết là các máy điều hòa không khí này làm ra ở Hoa Kỳ, và đó là trường hợp mãi cho đến cuối thế kỷ thứ 20 ). Cho nên, cũng như thế, tiền dân gian xài để trả các hóa đơn điện. Bang Vermont, ít nóng nực hơn, sẽ thấy ít mua bán như thế và sẽ thấy GDP nhỏ hơn là bang Alabama, ít nhất là liên quan đến các máy điều hòa không khí. Nhưng những con số này không nói gì cả về thịnh vượng tương đối của hai bang Hoa Kỳ về phẩm giá tổng thể đời sống bất cứ ở bang nào.
GDP làm méo mó những cách khác nữa. Nếu một nhà máy thép sản xuất ô nhiễm rồi cần phải làm sạch, cả hai sản lượng thọat tiên ( thép ) và phí tổn phải xài cho phó sản ( làm sạch ) cọng thêm vào GDP . Và đó cũng là phí tổn săn sóc sức khỏe cho bất cứ nhân công hay cư dân nào bị tổn thương hau đau ốm vì ô nhiễm. Đảo đề, nếu một công ty nào thay thế các bóng đèn qui ước bằng các bóng đèn LED lâu cháy bóng hơn, thành quả là công ty sẽ xài ít hơn về thắp sáng và điện, lợi nhuận hửu hiệu này sẽ được trừ ra khỏi GDP. Tuy nhiên, ít ai sẽ biện cứ là thí dụ ô nhiễm biểu hiện một phát triễn dương tính hay thí dụ thắp sáng là một biểu hiện âm tính.
Kutznets và nhóm ông, đã hiểu rỏ những giới hạn này. Như Kutznets viết năm 1934 “ khả năng đáng giá trị bộ óc chúng ta để đơn giản một tình trạng phức tạp … trở nên nguy hiểm khi không kiểm sóat theo đúng các điều kiện tiêu chuẩn đã định nghĩa.” Ông cảnh báo là các con số và các thống kê đặc biệt có thể rơi vào ảo tưởng “ chánh xác và đơn giản” và các chức quyền và nhiều người khác cũng có thể dễ dàng dùng sai chúng . Nhưng khi GDP trở thành một đá thử vàng - touchstone cho chánh sách công, những tế nhị này đã mất hút đi theo những thế hệ các nhà làm chánh sách tiếp theo nhau.
Những chờ đợi thổi phồng lên
Một điểm tương tự xảy ra cho thống kê lạm phát. Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ thọat tiên cố nghĩ ra một biện pháp đo lường gía cả năm 1917, hầu học hỏi là một gia đình Mỹ phải xài phí bao nhiêu để thỏa mãn những yêu cầu căn bản. Vào thập niên 1920, cố gắng này nhập vào một đeo đuổi lớn hơn để đo lường là các giá cả này đã tăng thêm bao nhiêu theo thời gian . Vào những năm đó, Cục dựa vào khảo cứu của hai nhân vật: nhà kinh tế học đại học Yale Irving Fisher và Wesley Mitchell, chủ tịch Cục khảo cứu Kinh tế Quốc gia. Cả hai đều bị chóa mắt về các thăng trầm giá cả và đã họat động về các cách thức có hệ thống, đo lường những thay đổi giá cả . Điều này có nghĩa là không những chỉ phái đi các nhà trắc đạc khắp Hoa Kỳ để ghi chép phí tổn một thúng hàng hóa đặc thù, như chánh phủ đã làm năm 1917 : nó còn có nghĩa là hình dung cách nào giá cả định dạng tiêu thụ và cách nào các hàng hóa mới đẩy ra ngòai các hàng hóa cũ . Không có điều này , chỉ số giá tiêu thụ- the consumer price index , CPI sử dụng để đo lường lạm phát ngày nay, có thể vẫn còn gồm có cả các quất roi ngựa- horsewhip hay các máy đánh chữ - Selectric typewriters của IBM .
Mãi cho đến thập niên 1970 , dân gian bình thường, thường không để ý tới hay thông hiểu các đo lường lạm phát - ngoại trừ các thành viên Nghiệp đòan, mà các lảnh tụ đòi hỏi là giá cả tăng thêm phải đóng cọc vào lạm phát . Thế nhưng Đại Lạm Phát thập niên 1970, khi các mức lạm phát chánh thức cao hơn 10 % thì chỉ số này được đẩy mạnh thành trung tâm tranh cải công chúng. Dù không một ai đặt câu hỏi là lạm phát cao vào những năm đó- ai cũng thấy là giá cả dâng lên- rất nhiều người lấy làm lạ về các nguyên nhân và mức độ nới rộng lạm phát thật sự. Cục Thông kê Lao Động lại càng làm cho nước đục ngầu thêm lên, khi công khai tự hỏi là CPI có đang nói qúa độ về lạm phát không đây? Điểm này hòan tòan nói ngược lại kinh nghiệm của các dân Mỹ bình thường, đang có cảm tưởng là bị cấu véo và tin chắc là các thống kê chánh thức đã định giá cả quá thấp. Tuy nhiên, năm 1977, nhấn mạnh là các phương pháp truyền thống đang làm cho các điều có vẽ tệ hại hơn thật tế, các nhà thống kê chánh phủ dẫn nhập “một lõi- core CPI” đo lường lạm phát mà không xía đến kế tóan hàng hóa tỉ như xăng và thực phẩm, nơi giá cả thường thay đổi. Lẽ dĩ nhiên, đối đa số dân gian Mỹ, đó là những hàng hóa họ lưu ý nhất. Lõi CPI trở thành thước mẩu đo lường cho các nhà làm chánh sách, chắc chắn như vậy vì nó lấy ra những hàng hóa giá cả không ổn định , có thể làm các nhận thức lệch nghiêng dễ dàng .
Vài thập niên 1990, câu hỏi là liệu các ước tính chánh thức có phóng đại tỉ xuất lạm phát không , một lần nữa trổi dậy. Greenspan gợi ý rằng nếu tỉ xuất thật tế được tính ra thì nó sẽ thấp hơn đến15 % con số chánh thức, có cơ dần tới hạ thấp đi chi tiêu chánh phủ hàng chục tỉ đô la, vì rằng số hượng này, đặc biệt là mức đời sống tăng gia cho các tiền trả An Sinh Xã hội - Social Security, đã được đóng cọc vào lạm phát. Để giải đáp, Quốc Hội Hoa Kỳ cho phép một ủy Ban điều tra vấn đề. Ủy Ban kết luận là đúng như thế, các con số lạm phát chánh thức đã phóng đại tỉ xuất thật sự.
Nhưng thay vì giải quyết vấn đề tranh cải, sửa chửa ẩu tả và tái xét thường xuyên đã bỏ thêm than vào lò mà thôi. Những kẻ gìn giữ chánh thức các con số kinh tế đã luôn luôn có co mắt cực trọng nhìn về các phương pháp mình và cố tìm kiếm ra những cách nào cải thiện chúng. Nhưng khi sáng chế phương pháp mới để định giá lạm phát, họ lại tạo ra một lổ hổng ở mức độ khả tín . Một phần nào thành quả là rất ít dân Mỹ tin cậy vào các con số lạm phát chánh thức: vì lẽ họ tin rằng các con số cố tình giảm xuống thấp giá cả gia tăng. Hòai nghi này được nhiều chuyên viên chia sẽ: những năm đầu tập niên vừa qua, các nhà kinh tế học như Austan Goolsbee , sau này là một cố vấn kinh tế chóp bu của Tòa Nhà Trắng ( dinh tổng thống ) và các nhà đầu tư nhiều uy tín tỉ như Wiiliam Gross thuộc công ty đầu tư PIMCO, trị gía nhiều tỉ đô la, đã nêu lên nghi ngờ mức chánh xác của các thống kê lạm phát chánh thức. Năm 2004, Cross viện dẫn là những con số này bản chất “công việc lừa bịp - con job” của chánh phủ .
Làm ra hay chụp lấy
Rồi thì đó là thương mãi. Tuy dân Mỹ chia rẽ hầu như trên mọi vấn đề, đa số lại đồng ý ít nhất trên một điểm: Trung Quốc là một mối đe dọa cho Hoa Kỳ . Dân Mỹ rất lo ngại về món nợ to lớn Hoa Kỳ ( hơn một ngàn tỉ đô la, 10 lần hơn tổng lợi tức Việt Nam hằng năm ) chánh phủ Trung Quốc nắm giữ và mức thâm thủng thương mãi Hoa Kỳ đối với Trung Quốc , đã tăng thêm mỗi năm và hiện nay đạt khỏang 300 tỉ đô la . Các đại công ty như Apple càng làm tăng bi kích tính thâm thủng này khi làm nguồn ngọai - oursourcing sản xuất của họ ra ngọai quốc..
Thặng dư thương mãi đối với Trung Quốc khởi đầu rộng thêm sau năm 2001, khi Bắc Bình gia nhập Tổ chức Thương mãi Thế giới- WTO. Thọat tiên , thâm thủng được xem như là một phó sản việc trổi dậy mau lẹ là một nhà chế tạo phí tổn thấp và là một cường quốc kinh tế đang nảy mầm. Tuy nhiên sau một thời gian ngắn, thâm thủng trở thành một tượng trưng cho suy thóai kinh tế Hoa Kỳ và là một triệu chứng những mất cân bằng tòan cầu nguy hiểm. Vài nhà học giả bắt đầu cảnh báo là thâm thủng thương mãi sâu đậm thêm, có thể đưa tới sụp đổ nền kinh tế Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, thật sự ít báo điềm gở hơn. Nếu các con số thương mãi kế tóan chánh xác hơn cách nào sản phẩm được làm ra , thì rất có thể là Hoa Kỳ không có thâm thủng thương mãi với Trung Quốc đâu . Tóm lại ,vấn đề là các con số thương mãi hiện được tính tóan căn cứ trên giả thiết là mỗi sản phẩm đều có nguồn gốc chỉ một quốc gia duy nhất và giá trị kê khai của sản phẩm là thuộc về quốc gia đó. Cho nên mỗi khi một iPhone hay một iPad xuất ra từ các sàn xưởng máy của Foxconn ( là nhà thầu lớn nhất của Apple tại Trung Quốc ) và du hành đến hải cảng Long Beach, bang Ca Li, nó được tính là một nhập khẩu từ Trung Quốc, vì chưng đó là nơi nó biến chế thành “ đổi thay đáng kể” cuối cùng và đó là tiêu chuẩn của WTO sử dụng để qui định là hàng hóa nào thuộc quốc gia nào. Mỗi một iPhone Apple bán ra ở Hoa Kỳ, thêm vào khỏang 200 đô la cho thâm thủng thương mãi Hoa Kỳ - Trung Quốc , chiếu theo những tính toán của 3 nhà kinh tế học nhìn vào vấn đề năm 2010 .
Điều này có nghĩa là vào năm 2013, mức bán chỉ riêng iPhone Hoa Kỳ của Apple đã thêm 6 - 8 tỉ đô la cho thâm thủng thương mãi với Trung Quốc mỗi năm, nếu không muốn nói là nhiều hơn nữa .
Một tiêu chuẩn khác hợp lý hơn, lẽ dĩ nhiên, sẽ công nhận là iPhones và iPads không có nguồn gốc là một quốc gia duy nhất. Hơn một tá công ty, từ ít nhất là 5 quốc gia, cung cấp các bộ phận cho chúng. Infineon Technologies ở Đức làm các chip không dây ; Toshiba ở Nhật chế tạo màn hình sờ mó được - touchscreen ; và Broadcom ở Hoa Kỳ làm ra các chip Răng Xanh- Bluetooth, giúp các linh kiện kết nối với các bộ ống nghe -headsets hay bàn toán - keyboards .
Các nhà phân tích khác ý kiến nhau về cách nào giá cả cuối cùng một iPhone hay một iPad phải được giao cho một quốc gia nào đó , nhưng không ai chống lại là một phần lớn lát cắt phải được giao lại, không phải cho Trung Quốcmà cho Hoa Kỳ . Đó là nơi họa kiểu và làm thị trường hóa những linh kiện này, tại trụ sở Trung ương Apple ở Cupertino, bang Ca Li. Và giá trị thực sự của một iPhone, lẽ dĩ nhiên, song song với hàng ngàn sản phẩm cao kỷ khác , đặt nằm không phải trong phần cứng lý học mà là ở sáng chế và công trình các cá nhân ý niệm, họa kiểu , làm môn bài , gói ghém và đặt nhãn hiệu cho linh kiện. Tài sản trí tuệ này, song song với thị trường hóa là nguồn giá trị lớn nhất của iPhone .
Đưa những sự kiện này vào kế tóan sẽ để cho Trung Quốc , nguồn cho là quốc gia nguyên thủy, một miếng nhỏ mọn của tòan thể chiếc bánh. Các nhà phân tích ước lượng rằng cứ mỗi giá trị nhỏ bé 10 đô la cho mỗi iPhone hay iPad cuối cùng cũng sa vào nền kinh tế Trung Quốc, dưới dạng lợi tức trả trực tiếp cho Foxconn hay các nhà thầu khác.
Những vấn đề không có gì là bí mật cho các nhà kinh tế trầm mình vào thế giới thương mãi và thống kê. Tuy nhiên có một khác biệt lớn lao giữa xác nhận vấn đề này và làm gì được về nó . Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triễn - OECD và WTO đã bắt đầu phát triễn những căn cứ dữ liệu để đo lường cái họ gọi là “ Thương mãi theo giá trị cộng thêm - trade in value added”. Sử dụng một dịch bản sớm sủa của căn cứ dữ liệu mới, các nhà kinh tế học đã tìm thấy là thâm thủng thương mãi thật sự giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, nhỏ hơn các tính tóan hiện hửu khỏang 25% . Dù cho những ước tính này đã làm tốt hơn cho việc chụp bắt dây chuyền cung cấp và gồm cả dịch vụ như thể là một thành phần trộn lẫn, chúng vẫn còn rất thô hào, vì lý do đơn giản là không ai có tài nguyên, dân gian, hay hệ thống tại chỗ, hầu đặt dính vào chánh xác giá trị của mỗi thành phần một sản phẩm chế tạo trên thế giới - nói chi đến các dịch vụ liên hệ - cho một quốc gia này hay quốc gia khác.
Chuyễn qua một bộ chỉ dẫn đích xác hơn sẽ không phải là một nhiệm vụ nhỏ bé. Thật đã quá phức tạp làm cho 159 thành phần hội viên của WTO đồng ý nhau về các biện pháp hiện hửu nhập khẩu và xuất khẩu. Cho nên, một lỗ trống rộng lớn vẫn duy trì giữa cái gì đang xảy ra trên thế giới thật sự và hình ảnh các con số thương mãi trưng bày. Trong lúc đó, dân Hoa Kỳ tiếp tục bực bội về Trung Quốc trổi dậy là một cường quốc chế tạo phí tổn thấp, đã phá hại ngầm nền kinh tế Hoa Kỳ , hạ thấp lương bổng và làm tệ hại thêm các cuộc phấn đấu của giới dân Mỹ họat động . Những lo sợ này không đứng vững : không lấy gì làm lạ là các công nhân Hoa Kỳ, đặc biệt ở ngành chế tạo, đã thấy lương bổng họ hạ thấp xuống và thất nghiệp dâng lên. Nhưng sự kiện là các con số thương mãi đã tính sai kích thước mất cân bằng giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, gợi ý rằng các nguyên nhân đổi thay âm tính ở nền kinh tế Hoa Kỳ đã bị xác định sai lạc. Cho nên không có lý do tin là nếu Bắc Bình đơn giản tái tăng giá tiền tệ Trung Quốc, hay Hoa Thịnh Đốn lấy một lập trường cứng rắn hơn chống lại các nhập khẩu Trung Quốc và chống lại Trung Quốc trộm vặt tài sản trí tuệ, kinh tế nội địa Hoa Kỳ sẽ cải thiện. Nếu Trung Quốc không phải là nguyên nhân chánh suy thóai kinh tế Hoa Kỳ, thì trừng phạt Trung Quốc sẽ không giúp đở, cải thiện vấn đề gì cả!
Một kích thước sẽ không mặc vừa cho mọi người đâu .
Không một chỉ dẫn kinh tế lảnh đạo nào ngày nay đã được vẽ ra để mang nặng cân như chúng hiện phải mang. Những đo lường này không được sáng chế ra để phục vụ, như thể là các mốc tuyệt đối cho thành công quốc gia hay thất bại, hay để cho biết là vài chánh phủ đã nhìn xa và vài chánh phủ khác lạilà kẻ phá hoại. Những biến đổi các con số này từ thống kê các thư lại và các nhà xử lý, thành những mốc của thành công quốc gia, đã xảy ra mau lẹ vài chục năm qua mà không một ai hoàn tòan để ý tới việc gì đã xảy ra. Các con số này được sáng chế ra để cho các nhà làm chánh sách những dụng cụ phát sinh những chánh sách tốt đẹp chửa trị những vấn đề kinh tế phi thường nhất lúc đó. Ở thập niên 1930, thành quả tỏ ra sáng tạo và sáng kiến mới mẽ bị bỏ qua, vì lẽ không có một thừa kế nào của chánh phủ, cố tâm cải thiện các bệnh họan kinh tế chung, dùng dữ liệu và thống kê. Các chỉ dẫn tỉ như GDP giúp các nhà làm chánh sách du hành trên nhiều thí nghiệm chánh sách phải cần làm lúc khốn đốn, chán chường. Nhưng ngày nay, thống kê quốc gia thường hay ngăn cản sáng kiến chánh sách ở Hoa Kỳ, không làm cho chánh sách dễ dàng hơn.
Có thể thỏai mái từ chương tiết lộ một khung cảnh mới và một bộ thống kê mới, phục vụ tốt đẹp hơn những đòi hỏi mới. Tuy nhiên, mọi chỉ dẫn là những con số đơn giản và đó chính là vấn đề. Bất cứ một con số nào cũng có nhược điểm, ngay cả khi nhược điểm khác nhau cho những con số khác nhau. GDP không tính tóan cho hạnh phúc, hài lòng hay công việc trong gia thất. Nó cũng không và không thể kế tóan các họat động tiêu khiển không thị trường hóa. Nó cũng không thể bao gồm những họat động hiện diện ngoài tầm tay xứ sở , tỉ như cái gọi là nền kinh tế vô hình giao dịch tiền mặt - cash transactions, chuyễn ngân tiền mặt từ các kiều dân di cư qua hệ thống dây, và buôn bán dịch vụ không chánh thức , mọi điều này chắc chắn tăng thêm nhiều ngàn tỉ đô la tòan cầu . Nhưng nếu các nhà kinh tế học thay GDP bằng một con số khác,nó cũng sẽ bỏ qua, thiếu sót một cái gì đó . Không một thống kê nào là đủ cả. Mọi chỉ dẫn đều đau khổ vì một sơ hở như nhau: chúng đã cố gắng vô hiệu quả, trích chiết những hệ thống kinh tế phức tạp , luôn luôn thay đổi thành một con số đơn giản duy nhất !.
Muốn có ích lợi, một thế hệ mới các chỉ dẫn sẽ phải trả lời những câu hỏi đặc biệt, đã định nghĩa tốt đẹp. Nhưng nó không được nhìn giống như những dịch bản mới của các con số xưa cũ . Chúng không thể là một tổng quát hóa là một kích thước mặc vừa cho tất cả - one- size- fits- all generalisations. Thay vì là vài trung bình lớn, các chức quyền và dân gian bình thường cần một sự đông đúc các con số cố tìm giải đáp một số nhiều câu hỏi . Ở thời đại “ dữ liệu lớn” tham vọng này có thể nằm trong tầm tay, nhờ những dụng cụ uy vũ tinh tóan, có thể làm tiến trình mau lẹ hàng lọat thông tin, không tưởng tượng nổi cách đây vài chục năm. Tóm gọn lạ , chúng ta không cần những chỉ dẫn lảnh đạo tốt hơn .Chúng ta cần những chỉ dẫn đúng theo đơn đặt hàng, cắt may theo những yêu cầu đặc thù các chánh phủ, doanh vụ, cộng đồng hay cá nhân- và chúng ta có kỷ thuật cung cấp chúng.
Đúng theo đơn đặt hàng - bespoke là một từ ít khi dùng ngày nay . Nó đến vào thời gian, khi dân gian có phương tiện sẽ đến tiệm thợ may và có áo quần họ mặc vừa và chỉ có họ mà thôi. Khác một bộ áo quần đặt mua, phí tổn các chỉ dẫn đúng theo đơn đặt hàng sẽ tối thiểu. Bất cứ ai với máy computer cũng có thẻ là thợ may mình và tạo dựng một đồ bản dữ liệu “ bespoke”. Và ở một thế giới, các thống kê kinh tế phục vụ xấu xa cho một kich thước- mặc vừa - tất cả thủ công ra các chỉ dẫn bespoke không phải là một xa xĩ, mà là một cần thiết .
Tìm kiếm các con số đúng phải bắt đầu bằng một câu hỏi : cái gì bạn cần biết hầu để làm cái gì bạn cần phải làm ? Các con số GDP ở Hoa Kỳ , Âu Châu và Trung Quốc, các công ty tỉ như Caterpillar hay General Electric hay Google, ít cần hơn là những động năng của thị trường nơi chúng họat động. Chi tiêu Chánh phủ về hạ tầng cơ sở ở Brasil ( Ba Tây ) và Trung Quốc đáng cho Caterpillar lo âu hơn là GDP . Và chi tiêu tòan cầu về quảng cáo trên đường dây trực tuyến là hệ thống mét khẩn thiết hơn cho Google. Cuối cùng ra , nếu ngay các tỉ xuất lạm phát và tăng trưởng GDP phẳng lì và các con số dân có công ăn việc làm yếu kém, các công ty có thể chi tiêu nhiều tiền hơn quảng cáo trên trực tuyến năm nay hơn là năm ngóai .
Vì lẽ chưa có nhưng chỉ dẫn tòan cầu lạm phát, công ăn việc làm, lương bổng và bất cứ gì khác . Bất cứ một công ty nào tầm vóc tòan cầu, cũng cần phải phát triễn hệ thống mét riêng cho mình, để giảp đáp những vấn đề mình. Nếu không, công ty sẽ càng thấy mình lẽ loi ở biển, làm những quyết định sai lầm và không biết là tại sao. Các doanh vụ nhỏ và các cá nhân còn được các chỉ dẫn lảnh đạo của thế kỷ 20, ít phục vụ hơn nữa. Sử dụng những tỉ xuất thất nghiệp quốc gia hay những con số nhà cửa xây cất quốc gia để quyết định ngày nay là lúc này có nên lập một doanh vụ hay mua một nhà ở hay không là một quyết định sai lầm. Cho ai đó nghĩ rằng mở một tiệm áo quần hay một tiệm ăn, CPI quốc gia tiết lộ rất ít điều và có thể dẫn đi sai lạc rất xa. Thay vào đó, các doanh nhân phải lưu tâm đến động năng của thị trường địa phương và các khuynh hướng ở ngành họ . Gặt mót thông tin, cách đây 30 năm rất khó khăn. Ngày nay đi vào nó chỉ cần vài giờ máy computer .
Về phía chánh phủ, họ đã sáng chế ra các chỉ dẫn cơ bản và họ vẫn còn là những cơ quan có nhiều lý do tốt đẹp tiếp tục sử dụng chúng. Các thống kê đại trà - macrostatistics chánh vẫn còn có ích đo lường các hệ thống kinh tế và các nhà kinh tế học phải cố gắng tinh luyện chúng để đuổi kịp thay đổi trên các hệ thống này. Tuy nhiên, các chánh phủ cũng còn cần phải nhận thức các giới hạn của các chỉ dẫn lảnh đạo yêu mến của mình.
Khuynh hướng tòan cầu về lao động và phí tổn hàng hóa rất quan trọng hơn bao giờ hết , nhưng các chỉ dẫn quốc gia không chụp bắt được chúng một cách chính xác. Cho nên các nhà làm chánh sác không nên lấy sáng kiến, giả thiết nền kinh tế quốc gia là một vòng thòng lọng đóng kín. Các chánh phủ cần làm tốt đẹp hơn chiếu theo đúng các khuynh hướng đặc thù, đôi khi bị các chỉ dẫn dựa vào các trung bình làm lu mờ đi. Chẳng hạn , xem thất ngjiệp là một vấn đề quốc gia gần như luôn luôn là một sai lầm. Khuynh hướng có công ăn việc làm thay đổi bi kịch tính theo tộc dân, địa lý, giới tính và mức độ giáo dục. Nhưng không một điều này đã phản ảnh ở tỉ xuất thất nghiệp bao gồm tất cả, cho nên các chánh sách chỉ được con số này thông tri, tất nhiên sẽ thiếu sót.
Các chánh phủ phải cố làm sử dụng các dữ liệu lớn sản xuất nhiều hơn lên và hướng các chánh sách minh chính xác hơn . Các chánh sách kinh tế phải kê rỏ là sản lượng yếu kém ở phần nào quốc gia mà vạm vở ở phần khác không và giá cả có ở một vùng nào đó có tăng thêm không và lại giảm đi ở một vùng khác . Chánh trị của một làm quyết định có thể khó khăn, nhưng nay dữ liệu giúp làm quyết định được.
Cách nào các xã hội giải quyết một vài vấn đề; cách nào các chánh phủ qui định các chánh sách hay các công ty đa quốc gia quyết định các chiến lược ; cách nào các doanh nhân làm chạy các doanh vụ mình; cách nào các cá nhân mua nhà cửa, trả tiền vào đại học hay nghĩ hưu - không một quyết định này sẽ được căn cứ trên các chỉ dẫn lảnh đạo của thế kỷ vừa qua. Mọi dính dấp vào những chỉ dẫn này và huyền thọai là có một cái gì gọi là “ nền kinh tế” ảnh hưởng đồng đều tất cả mọi người, đặt ra rào cản chánh cho tiến bộ.
Các chỉ dẩn sáng chế ở thế kỷ thứ 20 là những sáng kiến quan trọng vào thời điểm chúng. Nhưng trên một thế giới, nơi bất cứ ai có một điện thọai thông minh cũng đi vào được nhiều dữ liệu hơn là cả một nhóm nhà thống kê năm 1950, chánh phủ, doanh nhân, các cá nhân phải ôm chồm lấy sức mạnh để họa kiểu ra chính những chỉ dẫn bespoke của mình. Nhưng vấn đề này phải đặc thù và các giải đáp phải kê vào tính tóan những giới hạn của bất cứ dữ liệu nào. Thế nhưng thành quả sẽ là một đón mời giải phóng khỏi trừu tượng, khỏi những ý niệm lạc lối về nền kinh tế.
( Irvine ,ngày 12 tháng 3 năm 2014 )